CẢM HỨNG ĐỂ VIẾT TIỂU THUYẾT "CU CHÍ - CU PHONG" LÀ TỪ NHÂN VẬT JD VANCE
Khi thấy ông Donald Trump chọn ông JD Vance (sinh 1984) làm Phó Tổng thống Mỹ (Phó TT Mỹ trẻ nhứt hàng thứ ba sau John C. Breckinridge, Richard Nixon).
Tôi tò mò. Vì sao có một con người trẻ như thế lại giữ cương vị Phó TT nước Mỹ - một quốc gia có GDP tới 28,000 tỷ USD, có trên 300 triệu dân; sở hữu nhiều công nghệ nguồn và là cường quốc số 1 của thế giới.
Lần dò, tôi đọc quyển tự truyện "Khúc bi ca núi đồi" (có ngưởi dịch là "Khúc bi ca của gã dân quê") (Hillbilly Elegy) của JD Vance, và rồi tôi tìm phim để xem về cuộc đời của JD Vance, tôi thấy con người đó thật kiên cường, không chỉ tài năng, mà còn là sự chịu đựng được nghịch cảnh lớn. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khó, thuộc tầng lớp lao động, vùng Appalachia. Tuổi thơ của anh đầy biến động, không có cha, mẹ ông thì nghiện ngập nặng và thay người tình như thay áo, gia đình ông đầy bất ổn, bạo lực ...
Tuổi thơ ông đầy tội nghiệp, nhiều bất hạnh, bị mệt thị, bị đồng niên phân biệt, khinh bỉ ... Ông lớn lên cùng bà ngoại, và cũng là điểm tựa tinh thần duy nhất, lớn nhất đời ông, để ông không bị ngục ngã trước nghịch cảnh.
Bất chấp xuất thân khó khăn, JD Vance gia nhập Thủy quân lục chiến Mỹ. Sau đó ông học luật tại Đại học Yale, một trong những trường danh giá nhất nước Mỹ.
Ông là người yêu cha mẹ, yêu gia đình, yêu quê hương, yêu tổ quốc ... bằng tất cả nỗ lực không ngưng nghỉ, ông đã vượt lên nghịch cảnh, giúp gia đình thoát khó, ông thành công cao và thành thượng nghị sỹ Mỹ vào năm 38 tuổi.
Tôi nghĩ ông Trump chọn JD Vance là một bước đệm, để sau này JD Vance có thể là TT Mỹ. Vì một người trải qua nghịch cảnh lớn như JD Vance mà chịu đựng được, và vươn lên vị trí cao thì khả năng tiếp nhận, thích nghi, chịu đựng, trách nhiệm và hoàn thành tốt chức trách ở cương vị TT Mỹ là hoàn toàn có thể và tin cậy. (Ở nước ngoài, người ta thích đặt niềm tin và tin cậy nhiều vào các con người nghịch cảnh nhưng đã vượt lên chính mình và thành công cao).
Khi xem phim, tôi thấy tuổi thơ của JD Vance, không khác gì mấy so với tuổi thơ của tôi. Thậm chí JD Vance nhiều bất hạnh hơn như bị bạn bè kinh miệt, bị cô lập, bị ăn hiếp ... vì trẻ nhà nghèo!
Khó khăn vậy, mà JD Vance đã vượt qua, và thành công lớn. Đây là một bài học lớn cho những ai cùng cảnh ngộ, hay có một khát vọng lớn cho cuộc đời.
Tôi cũng vậy, dù không thành công cao như ông JD Vance, nhưng trong khốn khó bất tận, tôi đã vượt qua và thành công ở mức nhất định so với điều kiện của tôi. Tôi thấy, nó không quá khó để học tập, trao dồi, và cùng tiến bước. Vì vậy, tôi quyết định viết tiểu thuyết "Cu Chí - Cu Phong" như là một phần đời thật mà mình đã trải qua, và cũng là đúc kết nhiều bài học đậm mồ hôi và ngấn lệ tuôn trào để những ai cùng cảnh ngộ, cùng khát vọng cũng có thể lấy đó như một trải nghiệm lớn ngẫm nghĩ, tìm cách thích nghi, né được các tình huống éo le ... trong quá trình thực hiện khát vọng của cuộc đời mình!
Tiểu thuyết dày khoảng 300 trang, 12 chương, viết rất thật về các nghịch cảnh, khốn khó. Các suy tư về thời cuộc, các công việc đã kinh qua, các thành công và thất bại ...
Mong sách sẽ đến tay người cùng cảnh ngộ hoặc những ai đang tìm cách đẩy lùi nghịch cảnh, khốn khó bất tận.
Tôi viết cho chính tôi và những con người có khát vọng vươn lên bởi chính mình. ª
LỜI TỰ SỰ
(Trước khi vào truyện Cu Chí – Cu Phong)
Quê tôi, ai ai cũng có hai tên: một cái tên thường gọi – gọi là tên cúng cơm, và một cái tên “sổ bộ” – tên giấy tờ pháp lý. Riêng tôi lại có đến ba cái tên.
Mẹ đặt tôi tên là Cu Chí. Cha đặt tôi tên là Nguyễn Thẫn, theo vần với sáu anh chị em: "Thương
– Thu – Thơ – Thới – Thẫn – Thạnh".
Còn cái tên thứ ba, là một thứ chẳng ai mong có: tên của một căn bệnh – bệnh kinh phong, hay còn gọi là bệnh động kinh.
Tôi luôn nhớ về hai cái tên đầu đời: Cu Chí và Cu Phong – như hai mặt của một định mệnh đã in dấu lên cuộc đời tôi.
Cu Chí
Không phải “Chí” trong Chí Phèo – kẻ say xỉn ăn vạ ... Mà là “chí” của ý chí, của bền bỉ – có lẽ là mong ước thầm lặng của mẹ: mong tôi có chí tiến thủ, chí làm người, chí sống tử tế giữa cuộc đời nhiễu nhương.
Tôi nghĩ vậy, bởi tôi không còn cơ hội để hỏi mẹ vì sao đặt tên tôi là Chí. Bà mất khi tôi còn chưa kịp nhớ rõ mặt.
Cu Phong
Rồi một ngày, Cu Chí phát bệnh: Động kinh – căn bệnh khiến tôi bất ngờ té ngã bất kỳ lúc nào, khi té xuống thì toàn thân co giật, chân tay co quắp, miệng sùi bọt mép. Một ngày có khi tái phát hai, ba lần. Người ta bảo đó là chết giả. Bệnh ấy kỵ nước. Nhà lại gần sông, nên người lớn luôn thấp thỏm sợ tôi lỡ cơn mà rơi xuống dòng.
Nhà đông con, mặt mũi hao hao, nên để phân biệt, người ta hay hỏi:
– Có phải thằng Phong không?
Tức là: Có phải thằng bị bệnh phong không?
Từ đó, cái tên Cu Phong dính chặt vào tôi như một thứ định danh – và có phần khinh miệt. Tên không còn là để gọi, mà là để… nhớ rằng tôi từng bệnh, từng bị sợ hãi, từng bị xa lánh.
Lâu dần, người ta quên mất cái tên Cu Chí.
Ba tôi buồn, nhưng rồi cũng phải thuận. Ông làm mâm cơm nhỏ, thắp nhang cáo với tổ tiên để chính thức gọi tôi là Phong – như một sự chấp nhận. Như một cách để giữ tôi lại với đời.
Lên chín tuổi, căn bệnh ấy dần lui. Nhưng cái tên Cu Phong thì ở lại. Tôi không ghét nó. Bởi mỗi cái tên đều là một dấu ấn. Tên nào cũng là một phần ký ức – của mẹ, của ba, của những năm tháng chông chênh mà tôi đã sống sót bước qua.
Tôi lớn lên giữa những ánh mắt dửng dưng của người đời và những lời rủa sả từ cán bộ. Người đời thì xa lánh vì sợ dính dáng tới con cái của “tù nhân ngụy quyền”. Cán bộ thì răn con cháu:
– Nó là con của ngụy quân, ngụy quyền, đừng chơi với nó.
Mẹ tôi mất sớm. Ba tôi – một viên chức của chính quyền Sài Gòn trước 1975 – bị đưa đi tù tại núi Tiên Lãnh (Quảng Nam) gần ba năm. Ngày trở về, ông trắng tay, bị quản thúc tại địa phương thêm mười năm, mang thân phận bị tước sạch quyền công dân. Mãi đến năm 1987, ông mới được “trả lại quyền công dân”.
Tôi không đợi ai trao lại điều gì cho mình. Tôi học cách đứng lên khi không còn ai để nương tựa.
Cuộc đời không cho tôi gì cả. Mỗi bát cơm, mỗi chữ tôi học, mỗi bước tôi đi đều đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt – và đôi khi là cả máu.
Có người bảo tôi lì, có người nói tôi khôn sớm. Còn tôi thì chỉ thấy mình như một cái cây mọc lạc giữa đá sỏi – không chọn được chỗ sinh ra, chỉ biết cắm rễ thật sâu để sống còn.
Vì thế, tôi luôn yêu quý tên mình. Dù ai gọi là Cu Chí hay Cu Phong, tôi đều mỉm cười.
Tên nào cũng nhắc tôi nhớ về mẹ – người đã đặt cho tôi một niềm tin. Và nhớ về ba – người đã giữ tôi lại giữa giông gió, bệnh tật, và cả định kiến của cuộc đời.
Nhưng ký ức không chết. Nó âm ỉ cháy trong tôi, thôi thúc tôi phải kể lại tất cả - Không để than thở. Mà để chứng minh một điều:
Một thằng cu ... cũng có thể làm nên chuyện!
Giờ đây, tôi đang viết những dòng này từ một căn phòng nhỏ nơi xứ người - không còn là thằng bé bị gọi bằng tên bệnh, cũng không còn là "con của ngụy quyền". Tôi đã sống sót, trưởng thành, và đứng lên từ cái bóng quá khứ.
Tôi là người sáng lập và điều hành một công ty có tầm cỡ. Đồng thời, tôi cũng là chủ sở hữu kiêm tổng biên tập của hai tuần báo với ước nguyện phụng sự cộng đồng Việt, phát huy văn hóa Việt.
Tôi có 17 năm là thành viên Hội đồng Khoa học cho các mảng nghiên cứu về sinh học, vi sinh, môi trường, hoá chất, phân bón tại Việt Nam và 18 năm, tôi trao tặng học bổng "Thắp sáng ước mơ" cho sinh viên, học sinh Việt Nam khó khăn và hiếu học. Cuộc đời tôi nhiều thăng trầm, nhiều cung bậc. ª
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM - TÁC GIẢ
Cu Chí - Cu Phong là tiểu thuyết tự truyện. Thạc sĩ Nguyễn Văn Phong, một nhà khoa học, một doanh nhân với cuộc đời trải qua nhiều nghịch cảnh, đã không đầu hàng mà vươn lên bằng đôi chân trần. Nhân vật Cu Chí - Cu Phong là hình ảnh ẩn dụ về chính tác giả: một đứa trẻ bị định kiến vùi dập, nhưng không sờn lòng, nản chí mà tận dụng năng lực và sức phấn đấu liêm chính giữa dòng đời sỏi đá để trở thành người kiến tạo giá trị cho xã hội.
Theo tác giả, tiểu thuyết là một hành trình thật – không tô vẽ – đầy
nước mắt, nghị lực, và khát vọng sống. Nhân vật là chủ thể, không
đổ lỗi cho thời thế, không tìm cách biện minh nhưng xác định giá trị và
vì giá trị mà bươn tới để đạt lấy giá trị.
Ông muốn chia sẻ một bài học sống động cho những ai từng bị bỏ
lại phía sau, nhưng vẫn ước nguyện và có ý chí để làm chủ chính cuộc đời mình. Hãy đọc Cảm hứng và Lời Tự sự của Thạc sĩ Nguyễn Văn Phong để hiểu rõ tâm tình của ông trước khi khám phá các bí kíp thành đạt của ông được trình bày rõ ràng, mạch lạc nhưng không kém phần thực tiễn, sôi động trong tác phẩm Cu Chí - Cu Phong.
MẸ MẤT VÌ BỆNH DẠI
Xin dâng lên hương hồn mẹ!
Tôi không nhớ rõ khuôn mặt mẹ mình. Những ký ức về mẹ mờ nhạt như bóng nắng cuối chiều trên sân đất đỏ. Tất cả những gì còn sót lại chỉ là một tấm hình cũ chụp chung với gia đình bên ngoại – tấm hình mờ nhòe, rạn nứt theo năm tháng, với dáng người mảnh khảnh, tóc dài, cao chừng mét rưỡi có lẻ.
Tôi không nhớ mình có bao giờ gọi tiếng “mẹ” thật tròn rõ hay chưa. Không hình dung được gương mặt mẹ. Chỉ còn mang máng những câu dân ca xứ Quảng ngân nga đâu đó trong giấc ngủ chập chờn, và một mùi hương rất riêng của mẹ – thơm lạ kỳ, không thể so sánh với bất kỳ mùi hương nào khác trên đời.
Mẹ mất khi tôi vừa tròn bốn tuổi.
Năm đó, trời tháng Ba, nắng gắt. Mẹ đi làm hợp tác xã về, nằm võng nghỉ trưa. Tôi và bạn Lực – hàng xóm – chơi trò “Trốn - Tìm” (Kẻ trốn – Người tìm) và vô tình quẹt vào tay mẹ. Mẹ thức giấc và la rầy rất lớn – khác hẳn với giọng hiền dịu thường ngày. Tôi hoảng sợ, dừng chơi và không hiểu chuyện gì đang xảy ra bên trong mẹ.
Đêm đó, mẹ sốt cao. Khoảng ba giờ sáng, tôi thấy ba cùng chú Ba Tú, chú Sáu Tài và bác Sáu Đôi xì xào bàn bạc. Rồi họ đặt mẹ vào chiếc võng vải dù và khiêng lên bệnh viện thị trấn. Tới trưa hôm sau, khoảng 11–12 giờ, tôi thấy ba quay về. Ông leo lên cái gác – nơi gia đình tôi để đồ đạc mỗi mùa lũ lụt – rồi đưa xuống một vạt giường gỗ. Ông vừa đặt vạt giường xuống vừa khóc thút thít. Tôi hỏi:
-Ba bị gì mà khóc? Có gì làm ba đau hả?
Ba im lặng. Khi vạt giường chạm đất, ông nghẹn ngào:
-Mẹ con… chắc không qua khỏi rồi!
Tôi không hiểu ông nói gì. Lát sau, người ta đưa mẹ tôi về. Mẹ nằm trên chiếc giường mà ba tôi vừa ráp xong. Mọi người ghìm giữ mẹ rất chặt. Mẹ giãy giụa, đập mạnh tay xuống vạt giường, luôn miệng gọi:
-Khát nước… khát nước… cho tôi uống nước!
Có người đưa nước lên, nhưng mẹ ngợp nước, vung tay làm ca rơi xuống đất. Mọi người vẫn ghìm mẹ chặt.
Bà nội tôi hoảng hốt, chạy xuống nhà dưới dặn:
– Các con ở yên tại đây, đừng chạy lung tung! Mẹ các con đang bệnh nặng, chờ người ta chữa trị.
Bỗng mẹ tôi gọi lớn:
-Cu Chí! Cu Chí của mẹ đâu? Ra đây mẹ biểu!
Tôi lao lên nhà trên. Bà nội ôm chặt tôi lại:
-Cu Chí đây con. Con đang sốt cao, đừng chạm vào con nhỏ!
Tôi thấy mẹ vung tay vùng vẫy để lao về phía tôi, cố ôm lấy tôi. Nhưng không được. Mẹ bị giữ quá chặt. Mẹ đạp chân vào phên tôn, vang lên những tiếng chan chát như người thợ gò đập những tấm thiết. Tôi liếc mắt nhìn quanh – mọi người đứng vòng, trong vòng ngoài, bao kín lấy mẹ. Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra.
Người lớn xì xào. Tiếng bà nội, tiếng ba nghẹn ngào. Tiếng mẹ gọi. Tiếng anh chị em tôi khóc thút thít như mấy con mèo con.
Làng xóm kéo đến đông nghẹt. Tôi chạy ra sân, lấy cây sào tre, gác ngang qua hai cây chanh làm “barier”, hô lớn:
-Ai muốn vào nhà tui thì đưa tui 5 dây thun để làm ná bắn chim!
Có người ôm tôi, khóc nghẹn:
-Tội nghiệp con quá, con ơi…
Mẹ tôi vẫn vùng vẫy, đập đầu, đạp chân vào vách tôn. Tấm vách nhà tôi là tôn nhôm (người ta hay gọi là tôn giấy), loại tôn do Mỹ viện trợ để dựng ấp chiến lược trong thời chiến. Tôn thủng lỗ chỗ (có thể vì đạn bắn?). Người hiếu kỳ vây quanh nhà, dòm qua mấy lỗ thủng. Tôi nghe ai đó thì thầm:
-Chị Bảy Thông bị chó dại cắn rồi… phát bệnh dại rồi, tội nghiệp quá chừng!
0-Đừng đến gần! Chị mà cào hay cắn trúng là lây nhiễm, nguy hiểm lắm! Tầm 5–6 giờ chiều, mẹ tôi đuối dần, chỉ còn thì thào:
-Hãy giúp con tôi… Tôi không xin gì cả…
Tối hôm đó, bà nội dẫn chúng tôi – bốn anh em nhỏ – về nhà nội ngủ. Ở lại nhà, chỉ có ba tôi, chị Hai và anh Ba.
Sáng hôm sau, bà nội đưa chúng tôi về. Tôi thấy mẹ nằm yên. Bà mặc chiếc áo bà ba cổ tròn, màu xám, quần xa tanh màu đen. Mắt mẹ mở trừng trừng. Mọi người tản ra. Nội bảo:
-Các con… hãy nhìn mẹ lần cuối!
Anh Tư lúc đó mười hai tuổi, anh Năm tám tuổi, tôi bốn tuổi, đứa em út mới ba tháng.
Ai đó hô:
-Anh cả đâu? Lại đây mau!
Anh Ba – lúc đó mười bảy tuổi – bước tới. Họ đưa cho anh một lá trầu tươi và ly rượu nhỏ. Anh đổ rượu lên lá, vẩy ít rượu lên mặt mẹ, rồi vuốt xuống mặt mẹ. Vuốt vài lần, mắt mẹ từ từ khép lại. Có người bảo:
-Chị ấy đi rồi. Nhưng còn nhiều điều day dứt, nên chưa thể nhắm mắt…
Tôi nhớ như in, khi đoàn di quan qua cánh đồng lúa và khi đến dốc rừng Bà Tuồng, thì đoàn người hạ quan tài nghỉ tạm. Lúc đó, tôi đứng trong vòng tay của ba tôi, khi ông ngồi chồm hổm, tôi thấy nước mắt ông chảy dài xuống má. Đó là lần thứ hai, tôi thấy ba khóc.
(Hình ảnh này, giúp tôi mường tượng, tôi cao khoảng 0.8 mét (bởi ba tôi cao 1.7 mét, với dáng ngồi chồm hổm, nhưng tôi thấy được mắt ông, thì độ cao chừng tầm ấy)
Từ hôm đó, nhà thiếu hẳn một bóng người quen thuộc. Chiếc giường tre đầu hè lạnh ngắt, như chưa từng có ai nằm ở đó.
Mẹ tôi mất khi mới bốn mươi tuổi. Bà bị lên cơn dại – rabies – do vết cào của con chó Vện mà mẹ nuôi. Người ta bảo con Vện đã phát điên, cắn chết gà hàng xóm. Mẹ không tin. Bà ôm nó, bị nó cào xước tay bên trái.
Đúng ba tháng mười ngày sau, mẹ phát bệnh.