(Xem KỲ 1)

 

CẢM HỨNG ĐỂ VIẾT TIỂU THUYẾT "CU CHÍ - CU PHONG" LÀ TỪ NHÂN VẬT JD VANCE

 

Cu Chí - Cu Phong là tiểu thuyết tự truyện. Thạc sĩ Nguyễn Văn Phong, một nhà khoa học, một doanh nhân với cuộc đời trải qua nhiều nghịch cảnh, đã không đầu hàng mà vươn lên bằng đôi chân trần. Nhân vật Cu Chí - Cu Phong là hình ảnh ẩn dụ về chính tác giả: một đứa trẻ bị định kiến vùi dập, nhưng không sờn lòng, nản chí mà tận dụng năng lực và sức phấn đấu liêm chính giữa dòng đời sỏi đá để trở thành người kiến tạo giá trị cho xã hội.

 

Theo tác giả, tiểu thuyết là một hành trình thật – không tô vẽ – đầy nước mắt, nghị lực, và khát vọng sống. Nhân vật là chủ thể, không đổ lỗi cho thời thế, không tìm cách biện minh nhưng xác định giá trị và vì giá trị mà bươn tới để đạt lấy giá trị.

 

Ông muốn chia sẻ một bài  học  Phong để hiểu rõ tâm tình của ông  sống động cho những ai từng bị bỏ trước khi khám phá các bí kíp thành lại phía sau, nhưng vẫn ước nguyện đạt của ông được trình bày rõ ràng, và có ý chí để làm chủ chính cuộc mạch lạc nhưng không kém phần thực đời mình. Hãy đọc Cảm hứng và tiễn, sôi động trong tác phẩm Cu Chí  Lời Tự sự của Thạc sĩ Nguyễn Văn - Cu Phong. ●

 

 

(Tiếp theo kỳ Báo Dân Việt Newspaper DV#1920)

 

 

Tôi không nhớ rõ khuôn mặt mẹ mình. Những ký ức về mẹ mờ nhạt như bóng nắng cuối chiều trên sân đất đỏ. Tất cả những gì còn sót lại chỉ là một tấm hình cũ chụp chung với gia đình bên ngoại – tấm hình mờ nhòe, rạn nứt theo năm tháng, với dáng người mảnh khảnh, tóc dài, cao chừng mét rưỡi rưỡi.

 

 

Tôi không nhớ mình có bao giờ gọi tiếng “mẹ” thật tròn rõ hay chưa. Không hình dung được gương mặt mẹ. Chỉ còn mang máng những câu ca dao xứ Quảng ngân nga đâu đó trong giấc ngủ chập chờn, và một mùi hương rất riêng của mẹ – thơm lạ kỳ, không thể so sánh với bất kỳ mùi hương nào khác trên đời.

 

 

Mẹ mất khi tôi vừa tròn bốn tuổi.

 

 

Năm đó, trời tháng Ba, nắng gắt. Mẹ đi làm hợp tác xã về, nằm võng nghỉ trưa. Tôi và bạn Lực – hàng xóm – chơi trò “Trốn - Tìm” (Kẻ trốn – Người tìm) và vô tình quẹt vào tay mẹ. Mẹ thức giấc và la rầy rất lớn – khác hẳn với giọng hiền dịu thường ngày. Tôi hoảng sợ, dừng chơi và không hiểu chuyện gì đang xảy ra bên trong mẹ.

 

 

Đêm đó, mẹ sốt cao. Khoảng ba giờ sáng, tôi thấy ba cùng chú Ba Tú, chú Sáu Tài và bác Sáu Đôi xì xào bàn bạc. Rồi họ đặt mẹ vào chiếc võng vải dù và khiêng lên bệnh viện thị trấn. Tới trưa hôm sau, khoảng 11–12 giờ, tôi thấy ba quay về. Ông leo lên cái gác – nơi gia đình tôi để đồ đạc mỗi mùa lũ lụt – rồi đưa xuống một vạt giường gỗ. Ông vừa đặt vạt giường xuống vừa khóc thút thít. Tôi hỏi:

 

– Ba bị gì mà khóc? Có gì làm ba đau hả?

 

Ba im lặng. Khi vạt giường chạm đất, ông nghẹn ngào:

 

– Mẹ con… chắc không qua khỏi rồi!

 

 

Tôi không hiểu ông nói gì. Lát sau, người ta đưa mẹ tôi về. Mẹ nằm trên chiếc giường mà ba tôi vừa ráp xong. Mọi người ghìm giữ mẹ rất chặt. Mẹ giãy giụa, đập mạnh tay xuống vạt giường, luôn miệng gọi:

 

– Khát nước… khát nước… cho tôi uống nước!

 

 

Có người đưa nước lên, nhưng mẹ ngợp nước, vung tay làm ca rơi xuống đất. Mọi người vẫn ghìm mẹ chặt.

 

 

Bà nội tôi hoảng hốt, chạy xuống nhà dưới dặn:

 

– Các con ở yên tại đây, đừng chạy lung tung! Mẹ các con đang bệnh nặng, chờ người ta chữa trị.

 

Bỗng mẹ tôi gọi lớn:

 

– Cu Chí! Cu Chí của mẹ đâu? Ra đây mẹ biểu! Tôi lao lên nhà trên. Bà nội ôm chặt tôi lại:

 

– Cu Chí đây con. Con đang sốt cao, đừng chạm vào con nhỏ!

 

 

Tôi thấy mẹ vung tay vùng vẫy để lao về phía tôi, cố ôm lấy tôi. Nhưng không được. Mẹ bị giữ quá chặt. Mẹ đạp chân vào phên tôn, vang lên những tiếng chan chat như người thợ gò đập những tấm thiết.

 

 

Tôi liếc mắt nhìn quanh – mọi người đứng vòng, trong vòng ngoài, bao kín lấy mẹ. Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra.

 

 

Người lớn xì xào. Tiếng bà nội, tiếng ba nghẹn ngào. Tiếng mẹ gọi. Tiếng anh chị em tôi khóc thút thít như mấy con mèo con.

 

 

Làng xóm kéo đến đông nghẹt. Tôi chạy ra sân, lấy cây sào tre, gác ngang qua hai cây chanh làm “barier”, hô lớn:

 

– Ai muốn vào nhà tui thì đưa tui 5 dây thun để làm ná bắn chim! Có người ôm tôi, khóc nghẹn:

 

– Tội nghiệp con quá, con ơi…

 

 

Mẹ tôi vẫn vùng vẫy, đập đầu, đạp chân vào vách tôn. Tấm vách nhà tôi là tôn nhôm (người ta hay gọi là tôn giấy), loại tôn do Mỹ viện trợ để dựng ấp chiến lược trong thời chiến. Tôn thủng lỗ chỗ (có thể vì đạn bắn?). Người hiếu kỳ vây quanh nhà, dòm qua mấy lỗ thủng. Tôi nghe ai đó thì thầm:

 

– Chị Bảy Thông bị chó dại cắn rồi… phát bệnh dại rồi, tội nghiệp quá chừng!

 

– Đừng đến gần! Chị mà cào hay cắn trúng là lây nhiễm, nguy hiểm lắm!

 

Tầm 5–6 giờ chiều, mẹ tôi đuối dần, chỉ còn thì thào:

 

– Hãy giúp con tôi… Tôi không xin gì cả…

 

 

Tối hôm đó, bà nội dẫn chúng tôi – bốn anh em nhỏ – về nhà nội ngủ. Ở lại nhà, chỉ có ba tôi, chị Hai và anh Ba.

 

 

Sáng hôm sau, bà nội đưa chúng tôi về. Tôi thấy mẹ nằm yên. Bà mặc chiếc áo bà ba cổ tròn, màu xám, quần xa tanh màu đen. Mắt mẹ mở trừng trừng. Mọi người tản ra. Nội bảo:

 

– Các con… hãy nhìn mẹ lần cuối!

 

 

Anh Tư lúc đó mười hai tuổi, anh Năm tám tuổi, tôi bốn tuổi, đứa em út mới ba tháng.

 

Ai đó hô:

 

– Anh cả đâu? Lại đây mau!

 

Anh Ba – lúc đó mười bảy tuổi – bước tới. Họ đưa cho anh một lá trầu tươi và ly rượu nhỏ. Anh đổ rượu lên lá, rồi vuốt xuống mặt mẹ. Vuốt vài lần, mắt mẹ từ từ khép lại. Có người bảo:

 

– Chị ấy đi rồi. Nhưng còn nhiều điều day dứt, nên chưa thể nhắm mắt…

 

 

Tôi nhớ như in, khi đoàn di quan qua cánh đồng lúa và khi đến dốc rừng Bà Tuồng, thì đoàn người hạ quan tài nghỉ tạm. Lúc đó, tôi đứng trong vòng tay của ba tôi, khi ông ngồi chổm hổm, tôi thấy nước mắt ông chảy dài xuống má. Hình ảnh này, giúp tôi mường tượng, tôi cao khoảng 0,8 mét (bởi ba tôi cao 1,7 mét, với dáng ngồi chổm hổm, nhưng tôi thấy được mắt ông, thì độ cao chừng tấm ấy). Đó là lần thứ 2 tôi thấy ba tôi khóc.

 

 

Từ hôm đó, nhà thiếu hẳn một bóng người quen thuộc. Chiếc giường tre đầu hè lạnh ngắt, như chưa từng có ai nằm ở đó.

 

 

Mẹ tôi mất khi mới bốn mươi tuổi. Bà bị lên cơn dại – rabies – do vết cào của con chó Vện mà mẹ nuôi. Người ta bảo con Vện đã phát điên, cắn chết gà hàng xóm. Mẹ không tin. Bà ôm nó, bị nó cào xước tay bên trái. Đúng ba tháng mười ngày sau, mẹ phát bệnh.

 

 

Cha tôi, khi ấy tuổi bốn mươi ba – một người lính vừa bước ra khỏi cuộc chiến, trở về tay trắng, chưa kịp gượng dậy đã ngã quỵ vì cú sốc lớn nhất đời mình.

 

 

Mẹ mất. Cha ở vậy nuôi con. Sáu đứa, đứa lớn nhất mới hai mươi hai, đứa út chỉ sáu tháng tuổi – em chưa biết gọi tiếng “ba”, thì đã mất tiếng “mẹ” vinh viễn.

 

 

Cha tôi – người lính từng cầm súng và cầm bút – giờ thành người gùi nước, giặt tã, nấu cháo, bồng con, gánh gồng tất cả bằng một đôi vai trần. Ông làm thuê đủ mọi lĩnh vực như ép dầu, phụ hồ, bửa củi, cuốc ruộng ... nơi nào có thể kiếm được chút ít tiền để nuôi con, nơi đó có ba tôi.

 

 

Chúng tôi sống như những chiếc lá khô trôi trên dòng nước đục. Không định hướng, không điểm tựa, không một bàn tay nâng đỡ từ xã hội. Cái nghèo không chỉ là thiếu cơm, thiếu áo, mà là cảm giác bị gạt ra ngoài cuộc sống – bị nhìn như rác rưởi của một thời kỳ đã qua.

 

 

Kể từ hôm đó, tôi lớn lên mà không còn ai gọi mình là “con ơi” theo cái giọng dịu dàng quen thuộc nữa.

 

 

 

PHẦN 2: Nỗi trống rỗng, ngơ ngác và hoang mang đầu đời

 

Ngay lúc hạ nguyệt, khi mọi người lần lượt rải từng nắm đất lên quan tài mẹ, tôi vẫn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra. Tôi nắm tay ba, níu lấy vạt áo bạc màu của ông và ngước nhìn lên chiếc khăn tang trắng phủ ngang trán ông. Tôi vẫn chưa hiểu hết mẹ tôi đang về đâu.

 

 

Sau đó, bàn thờ mẹ được dựng lên, ngay chính giữa nhà trên – nơi có một chiếc giường tôi hay nằm, và bên kia là bộ bàn gỗ tiếp nước khách. Nền nhà phủ cát vàng óng, mịn như lụa. Đẹp đến lạ thường.

 

 

Sau này tôi mới biết, nền cát ấy từng là hố sâu thuộc khu “mả mẹo” – nơi chôn cất những nạn nhân của nạn đói năm Ất Dậu. Cát ấy, từng là dấu tích của cái chết. Còn với tôi lúc ấy, nó là sân chơi thơ ấu. Tôi lăn mình trên cát vào những trưa hè nắng nóng, đùa giỡn với mẹ, vùi đầu vào lớp cát mịn như vùi vào vòng tay mẹ. Có thể, ba mẹ để nguyên nền đất như vậy vì muốn tôi có chỗ chơi, hay đơn giản chỉ vì không có tiền mua gạch lót nhà. Tôi chưa từng hỏi về điều đó. Khi tôi vào trung học, nền nhà ấy được lót gạch thẻ, màu sẫm đỏ – một lớp thời gian khác.

 

 

Những đêm đầu sau ngày mẹ mất, tôi ngủ cùng ba. Em gái út mới ba tháng ruổi được nội mang về chăm nom. Còn tôi – tôi bắt đầu tìm kiếm mẹ. Tôi cứ nghĩ mẹ đang chơi trò "trốn - tìm". Tôi gọi mãi, không ai trả lời. Rồi tôi khóc ré lên. Ba ôm tôi vào lòng, dỗ dành, rồi nhẹ nhàng nói:

 

– Mẹ con mất rồi. Từ nay, con chỉ có ba, các anh chị, và bà nội của con thôi. Mẹ sẽ không quay lại nữa…

 

 

Tôi hoang mang nhìn ông, nhìn các anh chị, nhìn bàn thờ nghi ngút khói hương. Nhiều ngày sau đó, tôi vẫn gọi mẹ. Gọi khi nhớ và gọi cả trong mơ. Gọi mãi. Mỗi lần tôi gọi, người lớn lại hoảng sợ. Họ sợ tiếng gọi sẽ dẫn linh hồn mẹ về, lảng vảng quanh nhà. Hương tang vẫn còn, đèn cầy vẫn cháy lập lòe. Tiếng gọi yếu ớt của một đứa trẻ lên bốn khiến không gian càng lạnh hơn. Mỗi lần tôi gọi mẹ, các anh chị bỏ chạy xuống nhà dưới tụ lại như thể không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì ...

 

 

Hồi đó, xóm tôi toàn tre, tre mọc dày đặc. Tre thành hàng rào, giữ làng, giữ xóm. Nhà tôi đối diện với một bệnh xá, nơi có những người đàn bà đau đẻ, khóc la đau đớn mỗi khi sinh con. Dọc theo viền vườn là một cánh đồng tĩnh mịch, đầy mồ mả hoang từ năm Ất dậu. Có mả có bia đá, có mả chỉ là một mô đất cao, với những cây hoa ngũ sắc dại. Nơi có rất nhiều con rắn lãi (một loại như rắn hổ hành). Dân quê tôi, xem rắn lãi là linh hồn của những người xấu số. Vì vậy, không một ai đụng vào rắn. Rắn thản nhiên, cuộn mình ngủ trên bụi cây của các mồ mả vô chủ, hoang lạnh.

 

 

Ba tôi cột nhiều dải vải trắng lên các cành cây quanh nhà: cây chanh, cây ô-ma, cây chuối, cây sắn … Vải trắng đong đưa trước gió, như linh hồn mẹ đang lẩn khuất đâu đó. Nhà tôi thành một nơi người ta sợ đi ngang qua lúc đêm về.

 

 

Cô Tám Bâng bảo, mẹ tôi về báo mộng rằng: "dặn ba tôi, nhớ đi xúc cá nuôi con". Bác Sáu Đôi thì nói thấy mẹ lảng vảng ở hè. Thím Hai Thấn kể rằng: mẹ tôi hiện về, bắt chéo hai tay trước ngực như muốn nhắn gửi điều gì. Rồi ông thầy Mè – thầy phù thủy trong xóm – đến nhà làm lễ yểm, rồi ông lên mộ mẹ đào một lỗ sâu để yểm bùa. Ông nói: “Chị Bảy linh quá, chưa thoát được cõi trần.”

 

 

Anh em tôi, không ai dám ngủ trên nhà trên – nơi có bàn thờ mẹ. Chỉ tôi và ba vẫn nằm trên chiếc giường gỗ nơi mẹ từng ru tôi ngủ mỗi đêm. Mỗi lần thắp hương, tôi thấy ba khấn vái điều gì đó, rồi lặng lẽ khóc. Ông khóc rất nhiều. Có thể vì nhớ mẹ. Cũng có thể vì gánh nặng đang đè lên đôi vai gầy gò sau mấy năm tù tại núi Tiên Lãnh. Vì trong nhà này, chính mẹ mới là người gồng gánh tất cả – nuôi con, chăm nhà, tảo tần từng bữa cơm manh áo. Giờ ông phải thay việc đó.

 

 

Ba tôi từng là viên chức trong chính quyền VNCH, thường xuyên đi công vụ xa nhà. Lúc mẹ hấp hối, bà vẫn nhắc đi nhắc lại với ba: “Hãy nhớ giữ kỹ cái thùng đạn đại liên.” Bà nói như thế, nhiều lần trước khi nhắm mắt. Sau này, người ta tìm thấy chiếc thùng đạn ấy dưới gầm giường – nơi tôi từng nằm. Họ đồn rằng trong đó có vàng, là của cải mẹ để lại. Nhưng tôi biết, thời chiến, lấy gì để tích trữ? Có lẽ trong đó chỉ là vài kỷ vật, giấy tờ cũ – là ký ức, là những gì cha mẹ tôi từng gìn giữ giữa lằn ranh sống chết.

 

 

Mấy tháng sau, nhà tôi gần như vắng lặng. Không còn ai lui tới. Mẹ tôi từng là chiếc cầu nối giữa gia đình và chòm xóm, bên ngoại và bên nội. Giờ đây, chiếc cầu ấy đã gãy. Ba tôi, vừa ra tù, lại bị quản thúc tại địa phương. Ông bị bêu là “ngụy quyền”. Mỗi tuần, ông phải viết bản tường trình nộp cho chính quyền – lặp đi lặp lại những sơ đồ, danh sách nhân sự, các tổ chức cũ mà cán bộ quê nhà cho là “tàn dư phản động”. Một vòng tra khảo vô tận. Một hình thức kiểm soát tinh thần kéo dài không lối thoát. Mọi thứ là một cuộc kiểm chứng vô tận và như thể chỉ chờ ông sơ hở để buộc tội thêm.

 

 

Rồi thêm cái loa sắt của đài truyền thanh xã nhà, treo trên đọt cây dương liễu, trước cổng nhà tôi. Tiếng loa è è, như người nghẹt mũi giữa không gian hiu quạnh, tiếng loa sắt rền rĩ như tiếng vọng từ một thế giới xa lạ, đè lên từng nhịp thở trong căn nhà vốn đã lặng câm. Đêm đêm, khi tôi vừa chợp mắt, âm thanh ấy lại rít lên, è è, rền rĩ, lạnh như tiếng hú hoang dã từ cõi âm vọng về.

 

 

Mẹ mất rồi. Cái lạnh không chỉ len lỏi trong lòng, mà còn bao trùm cả bên ngoài.

 

 

Tôi ngơ ngác nhìn quanh, rồi nhìn vào chính mình và bắt đầu linh cảm về phần đời phía trước.

 

 

Một phần đời phải bước đi côi cút, phải gạn lọc từng hơi thở để tồn tại. Không ai cứu mình, ngoài chính mình!

 

 

 

PHẦN 3: Cu Chí lớn lên cùng ba và anh chị em

 

 

Mấy tháng sau ngày mẹ mất, Cu Chí vẫn gọi mẹ mãi… nhưng mẹ đã biệt tăm.

 

 

Rồi một ngày, cậu cũng dần hiểu ra: từ nay, thế giới của mình chỉ còn lại Ba và anh chị em trong căn nhà này.

 

 

Một năm sau, Chị Hai lấy chồng.

 

Anh Ba nhập ngũ, tham gia cuộc chiến chống Khmer Đỏ để bảo vệ Campuchia.

 

 

Đám cưới Chị Hai diễn ra vào ban đêm. Mọi thứ – từ lễ cưới đến đưa dâu – đều âm thầm trong bóng tối.

 

 

Ông Chủ tịch xã phán rằng: “Không thể để mất hình ảnh gia đình cách mạng.” Nhà trai là gia đình có lý lịch đỏ.

 

 

Còn nhà gái – tức là nhà tôi – là “ngụy quyền cũ, phản cách mạng”.

 

 

Vì vậy, không được tổ chức rình rang vào ban ngày, sẽ tạo ra tiền lệ không tốt cho các hôn nhân khác về sau.

 

 

Ba tôi hiểu thời cuộc. Hiểu cách hành xử của bên thắng trận. Ông cùng bà nội và một ít thân thuộc lặng lẽ tiễn con gái về làm dâu nơi treo đầy bằng khen.

 

 

Chiến tranh đã khốc liệt, nhưng hậu chiến còn khốc liệt hơn nhiều. Người đã mất thì thôi, nhưng người ở lại phải gánh chịu nỗi đau, sự sỉ nhục, bị dồn đẩy đến tận cùng.

 

 

Anh Ba lên đường ra trận, ở chiến trường Campuchia không một tin tức về nhà – nơi cuộc chiến chống Khmer Đỏ diễn ra âm thầm mà dữ dội. Gần như số người quay về nhà là rất ít.

 

 

Không lâu sau, Chị Hai rời bỏ người chồng do nhiều khác biệt trong cuộc sống hôn nhân, chị chuyển vào Sài Gòn, rồi bặt tin. Đời con gái của chị như lá úa trôi theo dòng nước đục câm.

 

 

Anh Ba, sau khi rời quân ngũ, cũng lặng lẽ tìm đến Sài Gòn, như trốn chạy một miền ký ức cũ.

 

 

Mãi đến khi tôi vào Đại học, mới gặp lại anh chị tại Ngãi Giao, Vũng Tàu.

 

 

Tôi không sống cùng Chị Hai hay Anh Ba. Tôi chỉ nhớ quanh mình là anh Tư, anh Năm, tôi – và đứa em gái út.

 

 

Nhà tôi có đủ thứ cây: chanh, ô-ma, ổi, bưởi, dứa, sắn, mai, huệ, cúc … Chúng tôi lớn lên cùng những loại cây ấy – và cũng khác biệt hệt như chúng. Không có cây nào giống cây nào. Không có đứa nào giống đứa nào.

 

 

Bảy tuổi, tôi đã biết nấu cơm, chăn bò, giữ em ... Các anh tôi cũng thay phiên nhau làm việc nhà.

 

 

Tôi đi đâu cũng cõng theo bé Út – con bé gầy guộc, chỉ uống được nước cơm loãng. Thứ nước trắng đục ấy được chế ra khi nồi cơm sôi, thêm vài hạt muối, khuấy đều – trở thành “sữa” cho em.

 

 

Thời ấy là thời tem phiếu, kinh tế tập thể, ngăn sông cấm chợ. Để nhận được sữa, thì phải chứng minh người mẹ phải khô sữa, mà mẹ thì mất rồi, nên việc nhận sữa cho em bé là không thể. ª

 

(Xem tiếp kỳ tới)