(Xem lại kỳ 8)

 

 

Cu Chí – Cu Phong là tiểu thuyết tự truyện. Thạc sĩ Nguyễn Văn Phong, một nhà khoa học, một doanh nhân vi cuộc đời trải qua nhiều nghịch cảnh, đã không đầu hàng mà vươn lên bằng đôi chân trần. Nhân vật Cu Chí – Cu Phong là hình ảnh ẩn dụ về chính tác giả: một đứa trẻ bị định kiến vùi dập, nhưng không sờn lòng, nản chí mà tận dụng năng lực và sức phấn đấu liêm chính giữa dòng đời sỏi đá để trở thành người kiến tạo giá trị cho xã hội.

 

Theo tác giả, tiểu thuyết là một hành trình thật – không tô vẽ – đầy nước mắt, nghị lực, và khát vọng sống. Nhân vật là chủ thể, không đổ lỗi cho thời thế, không tìm cách biện minh nhưng xác định giá trị và vì giá trị mà bươn tới để đạt lấy giá trị.

 

Ông muốn chia sẻ một bài học Phong để hiểu rõ tâm tình của ông sống động cho những ai từng bị bỏ trước khi khám phá các bí kíp thành lại phía sau, nhưng vẫn ước nguyện đạt của ông được trình bày rõ ràng, và có ý chí để làm chủ chính cuộc mạch lạc nhưng không kém phần thực đời mình. Hãy đọc Cảm hứng và Lời Tự sự của Thạc sĩ Nguyễn Văn Phong để hiểu rõ tâm tình của ông trước khi khám phá các bí kíp thành đạt của ông được trình bày rõ ràng, mạch lạc nhưng không kém phần thực tiễn, sôi động trong tác phẩm Cu Chí – Cu Phong.

(Xem lại kỳ 8)

 

 

 

-Dạ thưa… đây có phải nhà chú Quế – Bình Sa, em ruột của dượng Cư, dì Hiệp không ạ?

 

– Dạ đúng. Tôi là Quế. Em là ai? Sao ướt sũng, lấm lem vậy? Thôi vào nhà đi đã. Chú Quế rót cho tôi ly nước. Ngồi đối diện, chú hỏi han kỹ lưỡng.

 

Hồi đó, khu vực này có nhiều người vượt biên, nên hoàn cảnh của tôi khiến chú nửa tin nửa ngờ. Nhưng khi tôi nhắc đúng tên từng người trong họ – từ dượng Cư, dì Hiệp, đến ông ngoại, mẹ tôi, ba tôi – thì chú dần tin tưởng. Vợ chú ngồi bên cạnh cũng gật đầu, yên lòng.

 

Chú đưa tôi khăn lau, một bộ đồ ngủ kiểu pijama và hướng dẫn tôi vào tắm giặt. Rồi ra ăn tối cùng chú thím.

 

Hôm đó, chú đãi tôi một rổ tôm vàng gạch, cơm trắng dẻo, kèm một xị rượu trắng. Tôi đói lả, ăn ngấu nghiến, không nghĩ tới đầu, râu hay đuôi con tôm.

 

Chú thím nhìn tôi cười khúc khích:

 

-Ăn từ từ thôi, kẻo nghẹn đấy!

 

-Con đói quá… không giữ được mình. – Tôi cười, giọng run vì cảm động.

 

Đêm ấy, chú cháu ngồi hàn huyên rất lâu. Chuyện quê hương, chuyện những lần tản cư, chuyện mẹ tôi, ba tôi, chuyện dì Hiệp, dượng Cư… Sự hoảng loạn vì vụ lật thuyền dần dịu lại. Chú Quế nói:

 

-Ở đây là miền sông nước, đi lại toàn bằng vỏ lãi như vậy. Nhà nào cũng có một chiếc. Tai nạn sông nước cũng giống tai nạn xe cộ trên bờ thôi. Dân ở đây quen rồi. Chỉ có con thì lạ lẫm. May mà biết bơi, chứ không thì không biết sao rồi. Dân ở đây, ai không biết bơi là đã chết hết rồi! – Chú cười.

 

Xị rượu cạn lúc nào không hay. Tôi chìm vào giấc ngủ say.

 

Sáng hôm sau, chú cháu cà phê, ăn sáng. Rồi chú dẫn tôi đi mua một bộ đồ mới, đôi dép nhựa. Tôi bình tĩnh trở lại. Sau bữa ăn, tôi trình bày nguyện vọng xin dạy học như lời bé Loan từng gửi gắm.

 

Chú Quế trầm ngâm:

 

-Con mất hết giấy tờ, bằng cấp phổ thông trung học. Rất khó để chứng minh thân phận. Chính quyền giờ kiểm soát nghiêm ngặt lắm. Vùng này lại nhạy cảm, xuống chút nữa là ra cửa biển – nơi dễ vượt biên sang quốc gia khác. Nếu không chứng minh được thân phận, thì không chỉ không xin được dạy học, mà con còn bị buộc phải rời đi.

 

Tôi hiểu vấn đề. Nên chỉ biết gật đầu, không làm khó thêm chú nữa.

 

Hôm đó, tôi chào chú thím và rời đi. Tiền bạc trong túi vẫn còn đủ để về lại Sài Gòn. Nhưng tôi tự hỏi: Về lại để làm gì? Cơ hội học tập coi như chấm dứt. Bằng cấp mất hết rồi. Về lại chắc càng buồn hơn.

 

Tôi quay về Đầm Dơi, hy vọng tìm được việc gì đó để làm. May thay, tôi xin được làm công bốc vác đước (cây đước – dùng làm than) với một ông cụ. Ăn uống, ngủ nghỉ trên tàu. Lương 6,000 đồng/ngày.

 

Người ta mua đước từ Đầm Dơi, chở về Cà Mau bán để làm than. Công việc không quá nặng, nhưng phải di chuyển nhiều, khuân vác hàng khi tàu cập bến.

 

Ông cụ không có vợ con, cũng chẳng nhà cửa – chỉ có chiếc tàu nhỏ làm chốn nương thân. Tàu đi về giữa Cà Mau – Đầm Dơi, một vòng luẩn quẩn để kiếm sống.

 

Tôi trở thành “nhân viên” của ông cụ, cùng với một người đàn ông khác tên Quý. Tôi hay đùa: “Phong – Quý – Thân!” (vừa là tên ba người, vừa là lời nhắc: còn thân thể là còn hy vọng).

 

Chiếc tàu trở thành mái nhà. Tôi, anh Quý và ông cụ thành gia đình. Mỗi ngày đều đặn 6,000 đồng, không thiếu một xu. Kiểu sòng phẳng, thiệt tình của người miền Tây khiến tôi thấy dễ chịu và ấm lòng.

 

Con đường quay lại Sài Gòn hay bước vào giảng đường đại học của tôi… vẫn còn đó, nhưng mờ mịt và xa vời hơn bao giờ hết.

 

Chương 6.3: Cuộc sống sông nước Cà Mau

 

Cuộc sống của người miền sông nước Cà Mau gắn liền với những dòng sông đục phù sa, với tiếng sóng vỗ mạn ghe, tiếng chèo khua lóc bóc mỗi sáng sớm tinh mơ. Nhà ở đây thường dựng trên cọc tràm, cọc đước như kiểu nhà sàn, bên dưới là kênh rạch; lưng quay ra ruộng đồng, mặt hướng về sông nước – nơi vừa là đường đi, vừa là nguồn sống. Giỏ lãi là phương tiện giao thông chính, nhà nào cũng có ít nhất một chiếc.

 

 

Chợ nổi họp từ tinh sương, khi mặt trời còn mơ ngủ sau rặng dừa nước. Những chiếc ghe, vỏ lãi, xuồng ba lá chở đầy nông sản, trái cây như chuối, mít, dưa hấu, cá tôm, cua, ba khía, nghêu, sò, ốc, mắm muối… tấp nập bán mua. Người miền này hào sảng, chân chất – gặp nhau là cười, là hỏi: “Ăn cơm chưa?”, “Làm xị ha?”, “Ở bao lâu rồi?”, “Ăn được mắm ba khía hông?”… thân tình như người một nhà.

 

Trẻ em lớn lên với bùn đất, biết bơi trước khi biết viết, biết chèo ghe trước khi biết chạy xe đạp. Con cá, con tôm là bạn hằng ngày, còn con nước – lúc lên, lúc xuống – là nhịp thở của cả một vùng quê.

 

Buổi chiều, khói bếp bay lên từ những căn chòi lá. Mùi cá kho, canh chua, mắm kho quện theo gió mà thấm vào hồn đất phương Nam, vào trời xanh, mây trắng. Miền Cà Mau – mộc mạc như câu hò, như chiếc nón lá nghiêng che nắng, như những con người dẫu nghèo tiền bạc nhưng giàu nghĩa tình, chan chứa như dòng sông Năm Căn chẳng bao giờ cạn.

 

Tôi theo ghe cụ Thân ngược xuôi dòng Năm Căn, ra tận cửa Bồ Đề, nhìn xa thấy cả vịnh Thái Lan. Từ thuở hồng hoang, cha ông đã đi khai khẩn mở đất, và thiên nhiên đã hào phóng ban tặng cho Cà Mau những dòng sông cuồn cuộn phù sa, những miệt rừng ngập mặn bạt ngàn, chim muông, cá tôm nhiều vô kể. Tôi còn nhớ những con chim bói cá đậu trên những cành cây trụi lá ven sông, gần gũi như người bạn thân. Trên bầu trời xanh, từng đàn cò chao lượn. Các họng đáy bắt cá của cư dân trồi lên như những chiến luỹ “cọc Bạch Đằng” giữa cuộn sóng. Sông nước tạo nên hồn cốt của Cà Mau.

 

Đước, tràm… từng cây, từng cây được chất đầy lên ghe. Xong, tôi nằm phơi người trên sàn ghe, gió thổi mát rượi. Ngủ một giấc dài, rồi ghe cập bến nào đó theo đơn hàng của cụ Thân. Lại từng cây, từng cây được thả xuống trạm. Công việc mỗi ngày của tôi chỉ có vậy: lênh đênh cùng sông nước.

 

Đêm đêm, tôi nghe những câu hò cải lương mùi mẫn từ xóm ghe trên sông. Tiếng đàn kìm, tiếng song loan… hòa vào nhau tạo thành những giai điệu đặc trưng của người dân miền sông nước. Người Cà Mau dễ thương vô cùng.

 

Một ngày như mọi ngày, công việc của tôi dần trở nên chuyên nghiệp. Dù chỉ là bốc vác tầm thường, nhưng tôi làm rất tỉ mỉ, ngăn nắp đến từng centimet. Ông chủ Thân rất hài lòng. Nhiều lần, bên xị đế, ông nói:

 

-Phong hãy nhận ông làm Ba nuôi, sống cùng ông suốt đời trên chiếc ghe này. Cuộc sống sông nước, tuy có chút bất định, nhưng thoải mái lắm. Dễ kiếm tiền, dễ sống.

 

Tôi rưng rưng nước mắt. Một cuộc đời như ông thật tối giản, thật hạnh phúc. Vì suy cho cùng, sống vui, sống khỏe, sống không tất bật, không hổ thẹn, không tranh đua, không ân hận với ngày mai… thì đó đã là thiên đường rồi?

 

Sau này, mỗi lần nhớ về chuyến đi của mình, tôi thường hát “Áo mới Cà Mau” của nhạc sĩ Thanh Sơn. Bài hát miêu tả đầy đủ hình ảnh, sắc thái của một miền sông nước đầy yêu thương – nơi đã nuôi dưỡng tôi qua năm tháng cơ hàn.

 

Nghĩ lại, nếu ngày gặp thầy Quế, tôi có đủ giấy tờ, thì có thể tôi đã trở thành một thầy giáo dạy cấp 1, cấp 2 tại làng Tân Duyệt, hay Năm Căn, Đầm Dơi… Hoặc, sau này khi tốt nghiệp đại học, tôi về lại Cà Mau tư vấn việc xử lý chitin từ đầu tôm để sản xuất chitosan, … hay dự án ép vỏ trấu thành củi để bán cho các lò nhuộm vải. Cơ hội ở lại Cà Mau là rất nhiều. Nhưng rồi… tất cả đều vụt khỏi tay.

 

Có thể, mình không có quyền chọn nơi mình sinh ra, và cũng không dễ dàng chọn nơi mình muốn đến. Những khó khăn là phép thử để tôi luyện con người, để mình trở nên vững vàng hơn.

 

Dù ở đâu, ra sao, Cà Mau vẫn luôn in sâu trong tim tôi. Mỗi lần nhìn thấy cây đước, cây bần, cây tràm, nhìn thấy chiếc giỏ lãi, một cụ già hay con chim bói cá… là hình ảnh sông nước Cà Mau lại dậy lên trong lòng. Tôi luôn biết ơn miền sông nước ấy, biết ơn thầy Quế, cụ Thân, và cả người ẩn danh đã nhặt được cái bao ure – chiếc túi xách chứa đầy mơ ước của tôi. Chiếc túi được gửi về tận Bưu điện huyện Thăng Bình, không đề tên người nhận. Họ lập một hội đồng mở bao ra. Quần áo vẫn còn, sách vở và bằng cấp phổ thông vẫn còn, chỉ bị mờ đi một chút do thấm nước.

 

May mắn thay, bao ure có hai lớp – bên ngoài là sợi nhựa, bên trong là túi nylon. Khi trôi sông, túi có thể theo chiều thẳng đứng. Sách vở nằm dưới, bằng cấp và quần áo nằm trên. Bao được cột kín, nên không thấm nước và nổi lềnh bềnh trên sông. Có lẽ người tốt bụng nào đó nghĩ tôi đã chết, nên gửi về nhà như một “tín vật” cuối cùng.

 

Về phía Bưu điện Thăng Bình – khi hội đồng mở bao ra, nhìn tấm ảnh của tôi, có người đoán được là người làng Bình Đào. Họ mang túi về chợ Trà Đoá. Ông Đức – người chuyên hớt tóc cho tôi – nhận ra ngay. Họ đem túi đến tận nhà. Sau này, chị dâu – vợ anh Tư – kể lại:

 

Ba tôi khóc nức nở. Vì ông tưởng tôi đã chết. Cái túi là “vật chứng” để xác nhận sự ra đi. Ông lập bàn thờ, thắp nhang. Tuy vậy, vẫn chờ đợi. Vì ông tin: đã chết thì phải thấy xác.

 

Sau sáu tháng trên sông nước, tôi gửi thư cho ba. Mới biết rằng túi xách vẫn còn nguyên vẹn.

 

Một ai đó đã giúp tôi, âm thầm gửi về nhà. Đọc từng lời trong thư, tôi không tin vào mắt mình.

 

Tôi ngước nhìn trời cao… Mọi thứ có lẽ là một bài kiểm tra sức chịu đựng của tôi? Nhưng cũng là phép màu. Khát vọng cháy bỏng trong tôi trỗi dậy. Con đường học vấn không thể kết thúc như vậy.

 

Tôi khăn gói, chào tạm biệt cụ Thân và anh Quý. Hẹn một ngày gặp lại.

 

Cà Mau – nơi con nước không chỉ chở nặng phù sa, mà còn chở cả tình người mộc mạc, chân quê, đằm thắm như câu hò ru suốt một đời và giản dị như chén cơm chan nước mắm, mà đậm đà đến độ người đi xa rồi, lòng vẫn hoài thổn thức muốn quay về.

 

 

Chương 7

VÀO ĐẠI HỌC

 

Phần 7.1: Quay lại Sài Gòn

 

Sau những tháng ngày lênh đênh miền sông nước Cà Mau, tôi quay trở lại Sài Gòn, tìm đến công trình xây dựng Khách sạn Khải Hoàn.

 

Tòa nhà khi ấy đã lên đến tầng thứ tư. Anh em phụ hồ vẫn bám trụ với công trình, còn ông chủ Kiệt vẫn giữ phong thái vui vẻ, rộng lòng đón tôi quay lại làm việc. Em Phương tặng tôi một chiếc quần bảo hộ, còn anh Bên thì đưa tôi cái áo cũ. Tôi nhận công việc cột thép sàn, quay ròng rọc kéo sắt lên dàn để chuẩn bị đổ bê tông. Công nhật: 7.000 đồng/ ngày.

 

Với tôi, điều quan trọng nhất là giữ được sự ổn định và khả năng thích nghi. Bởi nếu tinh thần không vững, thì việc nhỏ cũng không thành. Từ một người quen cầm bút, dùng trí óc, tôi trở thành người cầm xà beng, búa, sẳn… im ỉm lao động, nhưng trong lòng tôi vẫn âm ỉ một bầu trời mơ ước về giảng đường đại học. Tôi tin, phải có chuyên môn, có tri thức sâu thì cuộc đời mới có thể sang trang, đổi thay.

 

Chỉ chưa đầy một năm, từ một chàng trai trắng trẻo, thong dong theo "style mọt sách", tôi đã trở nên già dặn hẳn. Rắn chắc, cơ bắp, phong trần ... như thể con nhà võ.

 

Ở vị trí nào, tôi cũng được ông chủ khen vì thái độ làm việc nghiêm túc, có trách nhiệm. Trong số anh em phụ hồ ở đây, chỉ có tôi có bằng tốt nghiệp phổ thông trung học, nên thường được giao thêm nhiều việc mang tính chỉ huy. Thậm chí, mỗi khi cần người đánh cờ giải trí, ông chủ lại gọi tôi hoặc anh Bên xuống chơi. Mỗi lần như vậy, chúng tôi được xem như đang làm việc – “công đánh cờ tướng” vẫn được trả như thường.

 

Ông Kiệt là chủ lớn, còn ông Khánh là chủ nhỏ. Tôi và anh Bên thay phiên đấu cờ với hai ông. Nhiều khi, tôi cố tình để thua, để tạo niềm vui cho các ông. Suy cho cùng, mình là thợ phụ hồ, sao có thể “đè” ông chủ?

 

Tuy nhiên, ông Khánh là người khó tính, hay gắt gỏng, thúc ép công nhân, nên gây ra nhiều sự căm phẫn ngấm ngầm. Có lần, khi đang quay ròng rọc kéo sắt lên tầng chín, thấy ông Khánh ở dưới đang lớn tiếng quát mắng, một vài anh em toan thả tay quay ròng rọc để… cho ông “ngã ngựa”. Tôi lập tức giật lấy vòng quay, ngăn lại tai họa:

 

– Không! Không được làm vậy. Tính mạng con người đâu thể đem ra đùa giỡn. Dừng lại ngay! Dù gì, ông ấy cũng là ông chủ. Chúng ta còn phải sống, phải cầu cạnh họ. Ông chủ mà chết, chúng ta thất nghiệp, rồi mọi thứ loạn lên cả!

 

Lời tôi nói như làm dịu lòng người. Cuối cùng, sắt vẫn tiếp tục được kéo lên sàn, thay vì buông thẳng vào đầu ông Khánh.

 

Sau này nghĩ lại, tôi nghiệm ra một điều: người làm chủ cũng cực chẳng kém, hiểm nguy cũng nhiều. Họ làm việc mười tiếng mỗi ngày, có khi hơn. Muốn quy tụ được người lao động, ông chủ phải có lòng bao dung. Muốn giữ được tài sản bền lâu, họ phải chính trực và công bằng. Một ông chủ tốt là người trả lương hậu hĩnh, biết trân trọng người lao động nghèo – vì chỉ có người nghèo mới chấp nhận làm thuê cho họ. Sự phản trắc cũng có thể làm mất mạng như chơi.

 

Những bài học đầu đời về nhân sinh và kinh tế, tôi ngộ ra từ chính công trình cát bụi, xô bồ, nhiều thành phần, nhiều luật chơi rất riêng ... như một xã hội thu nhỏ.

 

Ban ngày làm phụ hồ, ban đêm tôi tranh thủ mở sách ôn bài. Nhưng vì ăn uống kham khổ, thể trạng suy kiệt, nên chỉ đọc được vài trang là đôi mắt díp lại, gục xuống giấc ngủ mê mệt. Việc học trong hoàn cảnh ấy thật sự là một thử thách gần như bất khả thi.

 

Mỗi tối, tôi chui vào mùng, khêu chiếc đèn nhỏ, cố gắng đọc từng dòng chữ. Ánh sáng leo lét làm người khác khó ngủ, lại thêm tâm lý định kiến:

 

“Phụ hồ mà còn bày đặt học hành!”

 

Thế là tôi thường bị ném đá, ném sạn, kèm theo những lời chửi bới, giễu cợt nặng nề.

 

Dẫu vậy, tôi không trách. Tôi hiểu và cảm thông. Bởi nếu ai cũng trả lời được câu hỏi giản dị nhưng quan trọng: “Học để làm gì?” – thì họ đã không bị bỏ lại bên lề của tri thức và thời đại. Tôi may mắn hơn họ, vì sớm nhận ra giá trị của việc học. Bởi học chính là con đường ngắn nhất để thay đổi vận mệnh cho những ai đi lên từ tay trắng.

 

Vào đại học – nơi hội tụ những con người được chọn lọc qua thử thách – chỉ cần được ăn ở, sinh hoạt, làm việc trong môi trường ấy, tất yếu vận sẽ đổi, mệnh cũng theo đó mà chuyển. Còn những ai không đủ trí thức và tri thức, dù có gặp thời vận hay giàu sang bất ngờ, thì vẫn dễ chông chênh, lạc lõng – bởi giới hạn trong chuyên môn, nhận thức, tư duy và khả năng thích ứng.

 

Tôi cũng nhận ra: việc làm mướn lúc này có thể nuôi sống thân xác, nhưng chỉ có tri thức mới nuôi được khát vọng. Đồng tiền kiếm được bằng tay chân thường mau cạn kiệt, trong khi kiến thức là tài sản chẳng ai lấy đi được. Và hơn hết, học là cách trả ơn cuộc đời đã tạo ra mình.

 

Những đêm nằm co ro trên tấm bạt nhựa giữa công trường lạnh lẽo, tôi tự hỏi: vì sao giữa bao người, chỉ có mình tôi còn cố gắng cầm cuốn sách trong tay giữa công trường lấm lem bụi đất? Phải chăng là do tôi “ham học”, hay tôi không muốn tương lai mình được quyết định bởi một ông chủ nào đó, dù họ tốt hay không. Tôi muốn làm chủ chính mình. Và muốn làm được điều đó, tôi phải học. Tôi tưởng tượng ra một ngày: mình bước qua cổng trường đại học, mặc áo sinh viên, ngồi nghe giảng trong giảng đường sáng đèn, chép từng dòng chữ lên trang vở mới. Hình ảnh ấy như ngọn lửa nhỏ giữ ấm tâm hồn, giúp tôi vượt qua sự giễu cợt, khinh khi, và cả những cơn đói triền miên trong những ngày lang bạt. ª

 

 

(Xem tiếp tuần tới)