Cứ mỗi lần tới tết Trung Thu, ngẩng lên nhìn mặt trăng sáng vằng vặc trên không trung, tôi bỗng nhớ tới những câu chuyện thần thoại về chị Hằng, về Ngô Cương chặt quế và thỏ ngọc giã thuốc mà tôi thường nghe khi còn thơ dại.
Luân hồi chuyển thế đã mấy ngàn năm, những câu chuyện thần thoại xưa kia luôn hàm chứa nhiều ẩn ý sâu xa. Đã hàng ngàn năm qua đi, đây vẫn là điều con người luôn mong muốn tìm kiếm một lời giải…
Chúng ta hãy cũng tĩnh tâm lại một chút để cùng tìm hiểu ý tại ngôn ngoại ẩn sâu trong những câu chuyện thần thoại này.
1. Hằng Nga bay lên cung trăng
Trong cuốn sách cổ “Hoài Nam Tử” thời Tây Hán có câu chuyện Hằng Nga bay lên cung trăng. Mỗi lần tới Trung Thu, nhìn lên bầu trời chúng ta lại thầm hỏi: Trăng đêm rằm tròn và trong sáng tới vậy, cớ sao Hằng Nga chỉ ở đó một mình?
Trong truyền thuyết, Hằng Nga là nhân vật liên quan tới sợi tơ tình suốt thiên thu ngàn năm của thế gian nhân loại. Cái tên Hằng Nga gắn liền với Hậu Nghệ. Hậu Nghệ là anh hùng bắn rơi 9 mặt trời, còn Hằng Nga là một tiên nữ xinh đẹp trên thiên đình. Tương truyền, một ngày trên không trung bỗng xuất hiện 10 mặt trời làm trái đất nóng bỏng, hoa màu cỏ cây bị thiêu đốt, dân chúng cũng lầm than cơ cực. Đồng cảm với nỗi thống khổ của muôn dân trăm họ, Hậu Nghệ đã lên đỉnh núi Côn Lôn kéo căng cung thần nhắm vào mặt trời mà bắn. 9 mặt trời lần lượt rơi xuống đất, cuối cùng, chỉ còn lại một mặt trời chiếu sáng cho nhân gian.
Hậu Nghệ và Hằng Nga kết nghĩa phu thê, tình cảm đằm thắm như chim liền cánh như cây liền cành, kính trọng yêu thương nhau. Tuy nhiên đến một ngày, Hằng Nga bỗng rời xa người chồng của mình mà bay lên cung trăng, để lại chàng Hậu Nghệ đau buồn nơi trần thế…
Hậu Nghệ mê mờ trong nhân thế, Hằng Nga một mình lên cung trăng
Tại sao Hằng Nga lại bay lên cung trăng một mình? Trong các câu chuyện cổ được truyền lại có một số cách giải thích khác nhau:
Cách giải thích thứ nhất là Hằng Nga lấy trộm viên thuốc trường sinh nên đã bỏ lại Hậu Nghệ rồi một mình rời đi. Nhưng sau khi lên trời, Hằng Nga bị Thiên đế trách phạt và nhốt trong cung Quảng Hàm trên mặt trăng.
Tuy nhiên, nếu quả thật Hằng Nga là người thay lòng đổi dạ thì sao lại có thể lên được thiên giới? Người xấu sao lại có thể trở thành tiên nữ mà không phải ở lại nhân gian chịu báo ứng? Như vậy, cách giải thích này chưa thật sự hợp lý.
Cách giải thích thứ hai cho rằng, Hậu Nghệ và Hằng Nga vốn là phu thê tình cảm mặn nồng hòa thuận. Với tấm lòng nhân ái bao la, Hậu Nghệ đã truyền thụ thần thông cho mọi người trong thiên hạ. Tuy nhiên một trong những người được Hậu Nghệ truyền thụ lại có mưu đồ ác độc, rắp tâm ăn cắp tiên dược. Hằng Nga vì không muốn để tiên dược rơi vào tay kẻ ác nên đã nuốt viên thuốc trường sinh, kết quả nàng từ từ bay lên mà không kịp nói lời từ biệt với Hậu Nghệ.
Lại có một cách lý giải khác là: Sau khi bắn hạ 9 mặt trời, Hậu Nghệ được tôn vinh lên làm vua. Tuy nhiên, khi đã lập được công lao hiển hách, ông càng ngày càng trở nên kiêu ngạo, xa hoa phóng đãng và trở thành mối nguy hại cho muôn dân. Vì không muốn một tên bạo chúa có thể trường sinh bất lão nên Hằng Nga đã uống tiên dược.
Quay trở lại câu chuyện của Hằng Nga: Tại sao Tây Vương Mẫu chỉ đưa cho nàng một viên tiên dược? Đó là khảo nghiệm hay đó là lời tiên tri? Hay đó là lời nhắn nhủ rằng những kẻ tham lam dù có uống tiên dược cũng không thể thành tiên? Liệu thần có thể cho phép kẻ xấu dùng thủ đoạn cướp đoạt tiên dược mà thành tiên được không? Kỳ thực, chỉ những ai có tâm hồn thuần khiết không nhiễm bẩn bụi trần mới có thể thành tiên, chứ không phải thông qua thủ đoạn mà đạt được điều ấy.
Và phải chăng vì nhìn thấy Hậu Nghệ đang mê đắm trong danh lợi tình nơi cõi thế nên Tây Vương Mẫu chỉ đưa một viên tiên dược? Hằng Nga bay lên cung trăng không phải là bởi bất đắc dĩ, mà đó là sự xả bỏ, đoạn tuyệt với những thất tình lục dục nơi cõi người thường để đạt tới một cảnh giới siêu phàm, thoát tục. Mong muốn lên cung trăng, cũng chính là nguyện ước muốn quy thiên để trở về ngôi nhà chân chính của sinh mệnh.
Hậu Nghệ và Hằng Nga vốn là những sứ giả của Thần được cử xuống nhân gian, sau khi hoàn thành việc cứu độ thế nhân sẽ cùng nhau trở về trời. Tuy nhiên, vì Hậu Nghệ đã mê đắm quá sâu trong cõi nhân gian nên Hằng Nga chỉ có thể một mình bay về trời, quy thiên phục mệnh.
Đêm nay là đêm nào? Đừng để mất đi sinh mệnh và cơ duyên vốn có của bản thân
Gần 1.000 năm trước, Tô Đông Pha đã để lại những dòng tuyệt tác dưới đêm trăng:
“Vầng trăng sáng có tự khi nào,
Nâng chén rượu lên hỏi trời cao,
Chẳng biết cung điện trên chốn ấy,
Đêm nay đã là đêm năm nào”.
(Trích đăng nguyên tác bài thơ “Thủy điệu ca đầu – Trung thu” của Tô Đông Pha trên trang thivien.net:
明月幾時有,
把酒問青天。
不知天上宮闕,
今夕是何年。
我欲乘風歸去,
又恐瓊樓玉宇,
高處不勝寒。
起舞弄清影,
何似在人間。
轉朱閣,
低綺戶,
照無眠。
不應有恨,
何事長向別時圓。
人有悲歡離合,
月有陰晴圓缺,
此事古難全。
但願人長久,
千里共嬋娟。
Phiên âm Hán Việt: Thuỷ điệu ca đầu - Trung thu
Minh nguyệt kỷ thời hữu?
Bả tửu vấn thanh thiên.
Bất tri thiên thượng cung khuyết,
Kim tịch thị hà niên.
Ngã dục thừa phong quy khứ,
Hựu khủng quỳnh lâu ngọc vũ,
Cao xứ bất thắng hàn.
Khởi vũ lộng thanh ảnh,
Hà tự tại nhân gian.
Chuyển chu các,
Đê ỷ hộ,
Chiếu vô miên.
Bất ưng hữu hận,
Hà sự trường hướng biệt thời viên.
Nhân hữu bi, hoan, ly, hợp,
Nguyệt hữu âm, tình, viên, khuyết,
Thử sự cổ nan toàn.
Đãn nguyện nhân trường cửu,
Thiên lý cộng thiền quyên.
Dịch nghĩa
Trăng sáng có từ bao giờ,
Cầm chén rượu hỏi trời xanh.
Không biết là cung điện trên trời,
Đêm nay là năm nào?
Ta muốn cưỡi gió đi,
Lại sợ trên lầu quỳnh điện ngọc,
Nơi cao rét không chịu nổi.
Đứng lên múa, bóng trăng theo người,
Gì vui hơn ở dưới cõi đời.
Soi khắp gác tía,
Tà tà xuống cửa che màn gấm,
Soi cả đến người có bầu tâm sự không ngủ.
Chẳng hiểu trăng có mối hận gì,
Cớ sao lại cứ nhằm khi người ly biệt thì tròn.
Người có lúc buồn, vui, tan, hợp,
Trăng có mờ, tỏ, tròn, khuyết,
Việc này xưa nay khó bề trọn vẹn.
Những mong người sẽ mãi,
Từ nơi cách xa ngàn dặm cùng ngắm vầng trăng sáng với ta.)
Đêm nay đã là đêm năm nào? Có lúc là trăng sáng sao thưa, có lúc là trăng ẩn sao hiện, lại có lúc trăng sao cùng ẩn mất. Con người đi giữa thế gian cũng giống như vậy, có lúc thiện tính rõ ràng, lại có lúc ma tính nổi lên, và có lúc quên mất rằng bản thân mình là ai. Khi hạ xuống nhân gian lạc vào cõi hồng trần, chỉ vì một chút thành tích đã làm Hậu Nghệ phóng túng bản thân, để ma tính trong mình lấn át đi phần thiện tính, nên không thể thăng hoa tầng thứ, cũng vĩnh viễn không thể quay về trời.
Đây lẽ nào là lời nhắn nhủ tới con người thế gian? Câu chuyện Hậu Nghệ và Hằng Nga chính là lời thức tỉnh tới những ai đang hàng ngàn vạn năm không thoát khỏi kiếp luân hồi. Con người tới thế gian là mang theo sứ mệnh lịch sử, đó là tu luyện để thăng hoa cảnh giới của sinh mệnh, cuối cùng hồi thiên trở về nhà. Câu chuyện cũng là lời nhắc nhở thế nhân đừng mê đắm trong cõi hồng trần, để lỡ mất đi cơ duyên đáng quý nhất của bản nguyên sinh mệnh mình.
2. Ngô Cương chặt quế
Trong “Thái Bình ngự lãm” và “Hoài Nam Tử” có ghi chép về sự tích cây quế trên mặt trăng, cũng chính là câu chuyện thần thoại Ngô Cương chặt quế.
Ngô Cương là người Tây Hà sống vào thời nhà Hán, khi tu đạo vì phạm tội nên bị sư phụ trừng phạt, phải lên Nguyệt Cung chặt quế. Cây quế trên Nguyệt Cung cao 500 trượng, là loại cây vô cùng thần kỳ, hễ chặt thì vết chặt lại lành lặn như cũ. Bởi vậy mặc dù trải qua thời gian rất lâu, Ngô Cương cũng không làm cây quế đổ xuống được, đành bất đắc dĩ ở Nguyệt Cung chặt cây mãi không ngừng.
Ngô Cương bất lực trước cây quế cao to, tới lúc nào mới có thể đốn ngã, tới lúc nào mới có thể phục mệnh? Có lẽ việc chặt quế chính là một cách tu đạo mà sư phụ đã an bài cho anh ta, chính là qua chịu khổ mà tiêu trừ tội nghiệp. Vậy Ngô Cương phải làm thế nào mới có thể hoàn thành nhiệm vụ để thoát khỏi phàm trần?
Cảnh giới siêu phàm thoát tục, cuối cùng đắc Đạo thành tiên
Điều then chốt nhất của quá trình tu luyện chính là tu tâm. Sư phụ giao cho Ngô Cương chặt quế, một mặt vừa có thể thông qua chịu khổ mà tiêu nghiệp, một mặt cũng là để khảo nghiệm ngộ tính của Ngô Cương.
Người tu luyện phải đạt tới cảnh giới siêu phàm thì mới có thể thoát khỏi thế tục và đắc đạo, cũng chính là cần vượt qua tầng thứ hiện tại của bản thân mới có thể bước vào cảnh giới cao hơn. Chỉ khi loại bỏ những chấp trước ngăn trở về danh lợi tình trong thế gian, mới có thể đề cao cảnh giới và tầng thứ của sinh mệnh, mới có thể tu thành đắc đạo.
Đối với một người bình thường, chẳng phải đạo lý cũng như vậy hay sao? Người đời vì trăm ngàn lo âu về những thứ vật chất xung quanh mà tổn hại nhân tâm. Có những việc đôi khi cố gắng cả đời cũng không thể giải quyết được, bởi có những điều mà bản thân không thể làm chủ, ví dụ như thọ mệnh và số phận.
Những điều con người cả một đời theo đuổi đều không nằm ngoài những truy cầu về danh lợi tình. Kỳ thực, phúc phận của đời người sớm đã được an bài sắp đặt. “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”, tạo nghiệp đời trước sẽ phải hoàn trả kiếp này. Nếu bản thân có thể coi nhẹ mọi việc, lùi một bước biển rộng trời cao thì con người mới có thể thoát khỏi khổ ải trầm luân. Chỉ cần cố gắng làm tốt mọi việc, tuỳ kỳ tự nhiên, thuận thiên nhi hành, thì con người mới được sống an nhiên và tự tại. Thần Phật luôn bảo hộ những người lương thiện, những người luôn tích đức hành thiện thì phúc báo sẽ mãi dài lâu.
3. Thỏ ngọc giã thuốc
Người bạn nhỏ của chị Hằng trên cung trăng là thỏ ngọc. Câu chuyện về thỏ ngọc cũng là một trong những truyện cổ tích được lưu truyền trong ngày tết Trung Thu.
Trong “Nghĩ thiên vấn” của Phù Hàm có câu: “Trong trăng có gì thế? Có con thỏ bạch giã thuốc, cầu mong hưng thịnh, phúc lành”. Trong “Thơ ca nhạc phủ” thời xưa có bài: “Hái lấy ngọn cây trên núi thần dược, thỏ bạch giã thành viên thuốc tắc kè, dâng lên bệ hạ với cả tấm lòng”.
Kinh Veda kể rằng có bốn con vật, gồm khỉ, chó, rái cá và thỏ hằng ngày đến lắng nghe một vị đạo sĩ thuyết giáo. Một ngày nọ vị đạo sĩ tu thành và chuẩn bị rời khỏi thế gian; trước khi đi ông đã yêu cầu cả bốn con vật đi tìm thức ăn cho mình. Tất cả các con vật đều tìm được thức ăn, ngoại trừ thỏ. Vì để cung cấp thức ăn cho vị đạo sĩ, thỏ lao mình vào đống lửa, nhưng đống lửa lại biến thành băng tuyết và thỏ được cứu sống. Vị đạo sĩ hiển lộ thân phận thật và đưa thỏ lên cung Quảng Hàm, kể từ đó thỏ được lưu lại ở đây làm bạn với Hằng Nga.
Xả bỏ tự ngã, thoát khỏi phàm trần
Thỏ ngọc không phải là một chú thỏ bình thường. Từ xa xưa ngọc luôn tượng trưng cho phẩm hạnh đạo đức cao thượng, bởi vậy thỏ ngọc chính là một cảnh giới thăng hoa của sinh mệnh. Vì người khác, thỏ ngọc có thể hoàn toàn xả bỏ sinh mệnh, không màng tới an nguy của bản thân, vậy nên cảnh giới của thỏ ngọc đã thoát khỏi cõi phàm trần. “Thỏ ngọc giã thuốc” chính là bản nguyên của sinh mệnh sau khi không ngừng xả bỏ những tạp chất hậu thiên, hiển lộ bản chất hồn nhiên, thiện lương, thuần khiết vốn có. Thiện lương vốn là bản tính của con người, bản chất vô tư vô ngã chính là loại tiên đơn thần dược trường sinh bất lão chân chính nhất.
Hàng ngày hàng giờ, năm này qua năm khác, chúng ta đang đắm chìm trong vòng quay nơi thế tục. Trong những bon chen chìm nổi đó, con người dễ dàng nảy sinh các chủng nhân tâm như toan tính, ganh ghét, tranh đấu… Do vậy nếu muốn được thanh thản, muốn được thăng hoa, con người cần phải giữ cho mình sự thư thái thiện lương và không ngừng loại bỏ những nhân tâm bất hảo của bản thân. Thỏ ngọc giã thuốc là tượng trưng cho sinh mệnh con người, ở vào bất cứ thời điểm nào cũng không ngừng tu luyện bản thân, phản hồi về bản tính tiên thiên vốn có của sinh mệnh khi tới thế gian này.
Ánh trăng thu vẫn hàng ngày hàng giờ chiếu sáng thế gian, đưa đường chỉ lối cho con người mỗi khi đêm đến. Trong những năm tháng của tiến trình sinh mệnh, hãy giống như ánh trăng đang hàng ngày soi tỏ kia, luôn giữ được sự thuần khiết của mình. Hãy không ngừng đề cao cảnh giới tư tưởng đạo đức, quay về bản tính Chân, Thiện, Nhẫn tiên thiên vốn có của bản thân, đó mới là thứ tiên dược chân chính giúp con người “trường sinh bất lão”.
Phải chăng đây cũng chính là hàm ý sâu xa trong những câu chuyện thần thoại về tết Trung Thu được lưu truyền cho đến ngày nay?
(Theo DKN.TV)