(Xem lại kỳ 9)

 

 

Cu Chí – Cu Phong là tiểu thuyết tự truyện. Thạc sĩ Nguyễn Văn Phong, một nhà khoa học, một doanh nhân vi cuộc đời trải qua nhiều nghịch cảnh, đã không đầu hàng mà vươn lên bằng đôi chân trần. Nhân vật Cu Chí – Cu Phong là hình ảnh ẩn dụ về chính tác giả: một đứa trẻ bị định kiến vùi dập, nhưng không sờn lòng, nản chí mà tận dụng năng lực và sức phấn đấu liêm chính giữa dòng đời sỏi đá để trở thành người kiến tạo giá trị cho xã hội.

 

Theo tác giả, tiểu thuyết là một hành trình thật – không tô vẽ – đầy nước mắt, nghị lực, và khát vọng sống. Nhân vật là chủ thể, không đổ lỗi cho thời thế, không tìm cách biện minh nhưng xác định giá trị và vì giá trị mà bươn tới để đạt lấy giá trị.

 

Ông muốn chia sẻ một bài học Phong để hiểu rõ tâm tình của ông sống động cho những ai từng bị bỏ trước khi khám phá các bí kíp thành lại phía sau, nhưng vẫn ước nguyện đạt của ông được trình bày rõ ràng, và có ý chí để làm chủ chính cuộc mạch lạc nhưng không kém phần thực đời mình. Hãy đọc Cảm hứng và Lời Tự sự của Thạc sĩ Nguyễn Văn Phong để hiểu rõ tâm tình của ông trước khi khám phá các bí kíp thành đạt của ông được trình bày rõ ràng, mạch lạc nhưng không kém phần thực tiễn, sôi động trong tác phẩm Cu Chí – Cu Phong.

(Xem lại kỳ 9)

 

 

Cu Chí - Cu Phong  

----------------------------------------------------------------------------

 

 

Đã có lúc, tôi muốn chuyển từ khối B (Toán – Hóa – Sinh) sang khối C (Văn – Sử – Địa), vì nghĩ rằng khối C chỉ cần đọc, nghiền  ngẫm, không cần giải bài trực tiếp – có thể, tại công trường, học âm thầm mà ít bị chú ý. Nhưng rồi tôi lại thôi. Văn dở, Sử quên, Địa không thấm… Tôi quyết định quay lại với khối B, nhất là môn Hóa – môn tôi yêu thích và có nền tảng tốt nhất.

 

Chính vì thế, tôi hiều răng, điều cân tìm lúc này không phải là một chô làm đê kiêm nhiêu tiên, mà là một nơi đủ yên tĩnh và nhân ái để tôi tiếp tục học - khi còn có thể, khi tuổi trẻ còn đang ở lại với mình.

 

Sau bảy tháng làm phụ hồ, tôi rời công trường khách sạn Khải Hoàn, chuyển về Vũng Tàu xin làm nghề buôn bán nông sản với ông Lê Văn Cảnh ở Ngãi Giao, Bà Rịa.

 

Tôi chia tay đồng nghiệp, chia tay ông chủ Kiệt và cả ông Khánh.

 

Sau này, khi đã thành công, mỗi lần ghé lại Khách sạn Khải Hoàn để ăn uống, cà phê hay xông hơi thư giãn, tôi thường kể cho nhân viên nơi đây nghe về những ngày tháng mình từng vác sắt, vác từng bao xi măng, bọc móng cho khách sạn này – từ tầng trệt đến tận tầng thượng.

 

Tôi hay tặng quà, bo típ thêm tiền cho họ như một cách sẻ chia, như muốn tiếp sức cho những người đang trải qua cảnh cơ hàn – giống như tôi của ngày trước. Họ, trong mắt tôi, là hình ảnh phản chiếu lại chính mình thuở đói nghèo, lấm lem, nhưng không buông xuôi.

 

Nhìn họ, tôi thầm nghĩ: ai rồi cũng sẽ đi qua những giai đoạn nhọc nhằn của đời mình. Ai rồi cũng sẽ khác, nếu họ biết chọn cho mình một con đường tử tế, một cuộc sống phù hợp với nỗ lực mà họ bỏ ra. Thượng Đế không bao giờ lấy hết của ai tất cả, cũng chẳng trao cho ai quá nhiều thứ. Người có nhân cách tốt thì sẽ được cho thêm; người thiếu điều đó, sớm muộn cũng mất đi – kể cả những gì tưởng chừng đang nắm trong tay.

 

Ông chủ Kiệt khi ấy đã lớn tuổi, nhưng vẫn điềm đạm, vui vẻ bắt tay tôi, ôn lại những kỷ niệm một thời gạch đá, cát bụi.

 

Sài Gòn lúc đó còn nghèo, nhiều đường chưa tráng nhựa dù nằm gần trung tâm. Trộm cướp, đĩ điếm nhan nhản. Mỗi tối thứ bảy, sau khi lãnh lương, chúng tôi thường rảo bước ra ngã sáu Phù Đổng – nơi gái mại dâm đứng xếp hàng từ Chùa Quốc Tự, Rạp Hòa Bình… kéo dài đến bùng binh. Chúng tôi từng bị mồi chài, bị kéo tay… phải cố vùng vẫy mới thoát khỏi đám chủ chứa:

 

- Tụi con còn nhỏ, lại nghèo, đâu có tiền xài mấy dịch vụ này. Buông con ra!

- Nhỏ có nhỏ, nghèo có giá rẻ! Vô tư đi con!

 

Thời ấy, lơ ngơ là bị móc túi, cướp giật, hành hung… Sài Gòn, 1992 nơi tôi trải nghiệm ở tuổi 18 – vừa xô bồ, luộm thuộm, vừa bao dung – nơi tôi bước những bước đầu tiên trên hành trình đổi đời.

 

Chính trong cái thành phố bụi bặm, lắm cạm bẫy ấy, tôi đã học được cách tự cứu mình – bằng lao động, bằng ước mơ, và bằng cả sự chịu đựng lặng thầm. Và cũng tại nơi này, tôi bắt đầu lần tìm con đường đến giảng đường đại học- Nơi, giúp cuộc đời tôi sang trang một cách ngoạn mục!

 

 

Phần 7.2: Chấp nhận lao động giá rẻ

 

Tôi rời Sài Gòn, đến vùng Bình Ba, Bà Rịa – Vũng Tàu. Một vùng đất đỏ bazan màu mỡ, cây trái xanh tốt bốn mùa. Những con đường bụi đỏ quạch, những bức tường nhà phai màu đất, những đôi dép, tà áo nhuốm đỏ bởi đất bazan đặc trưng. Bạt ngàn rừng cao su thời Pháp để lại vẫn còn khai thác mủ.

 

Nhiệm vụ của tôi là thu mua nông sản: hạt điều, tiêu, cà phê, bắp, khoai mì cắt lát ... Cửa hàng lo cho tôi cơm ăn, nước uống, chỗ ngủ. Mỗi ngày được trả 400 đồng, tức khoảng 12.000 đồng một tháng. Tôi biết và nhận thức rõ đó là mức thù lao ít ỏi, nhưng mình cần nơi để tập trung ôn luyện thi đại học. Chỉ cần đủ cơm ăn, và buổi tối không bị ai làm phiền, với tôi là ổn định.

 

Trong đời, có lúc phải chấp nhận thiệt thòi một chút để đổi lấy một kế hoạch cho mục tiêu lâu dài?

 

Tôi nhanh chóng tiếp cận và thành thạo công việc: từ phương pháp cân hàng số lượng lớn (bấm cân nhanh), đến sắp xếp, phân loại hàng hoá, ghi chép sổ sách nhập kho. Ngoài ra, tôi còn phụ trách luôn việc bán gạo, thức ăn gia súc. Làm ở khâu nào, tôi cũng nắm vững – nhờ sự tập trung, siêng năng và không ngại khó.

 

Giờ giấc rõ ràng: 7 giờ sáng mở cửa đón khách, 17 giờ đóng cửa nghỉ. Xong việc, tôi rút vào phòng riêng, lật lại từng trang sách. Tôi chia thời gian ôn luyện theo chiến lược rõ ràng: Hóa học chiếm 50%, Sinh học 30%, và Toán 20%. Tôi đặt mục tiêu Hóa phải đạt 9 điểm, Sinh 7 điểm và Toán 5 điểm – chỉ cần vậy là đủ để chạm vào cánh cửa đại học. Bộ đề Hóa, tôi gần như thuộc nằm trong lòng bàn tay, đủ tự tin lấy trọn điểm. Sinh thì tạm ổn, có thể đạt 6 - 7 điểm. Riêng Toán, dù từng là học sinh giỏi Toán và đã trải qua nhiều kỳ thi học sinh giỏi, nhưng tôi hiểu rõ: nếu sa đà vào Toán, chỉ cần chậm một chút là sẽ hết giờ, và sẽ không kéo kịp hai môn còn lại.

 

Công việc buôn bán nông sản cùng ông chủ Cảnh cũng cho tôi nhiều bài học thực tế. Tôi nhận ra: sau này làm nghề gì thì điều quan trọng vẫn là tạo ra giá trị – và giá trị đó phải chuyển hóa thành tiền bạc.

 

Người sở hữu tài sản chưa chắc đã giỏi – vì tài sản có thể là thừa kế hoặc do may mắn. Nhưng người giỏi thật sự thì không thể nghèo mãi được. Tôi tự tin, không cho phép mình nghĩ về những gì thuộc về ng- hèo khổ. Tất cả chỉ là thử thách sức chịu đựng gủa tôi.

 

Cầm lát khoai mỳ, bẻ đôi, tôi đoán được độ ẩm. Nhìn một xe khoai mỳ, tôi ước chừng được khối lượng. Chỉ cần thọc tay vào bao hạt tiêu hay hạt bắp, tôi cũng có thể dự đoán chính xác độ ẩm và trọng lượng. Có nhiều hình thức mua bán kiểu “lời ăn – lỗ chịu”, tức là mua bán mẫu, không cần cân đo. Những kiểu giao dịch như vậy, phần lớn người chủ sẽ nắm cán dao.

 

Mỗi tuần, tôi dành ra một tối Chủ Nhật để dạy kèm miễn phí cho con em người dân địa phương. Tôi dựng bảng với dòng chữ: “NHẬN DẠY KÈM MIỄN PHÍ TOÁN – HÓA – SINH” trước sân.

 

Nhờ đó mà tôi kết nối được với bà con chòm xóm. Từ những buổi học đơn sơ ấy, cửa hàng kinh doanh của ông chủ Cảnh cũng trở nên nhộn nhịp hơn hẳn.

 

Nhờ tôi nhanh nhẹn, tháo vát, ông chủ dần rút lui khỏi các công việc thường nhật. Việc giao nhận hàng hóa, buôn bán lớn nhỏ – tôi đảm nhận toàn bộ. Cửa hàng ăn nên làm ra, nông sản vào ra nườm nượp.

 

Rồi ngày thi cũng đến. Hôm chia tay, ông bà chủ làm một bữa cơm nhỏ tiễn tôi. Họ thanh toán đầy đủ tiền công và đưa tôi ra tận xe. Tôi ngoái nhìn cửa hàng lần cuối, biết chắc rằng sẽ không có ngày quay lại. Mọi thứ giữa tôi và ông bà chủ đã trọn vẹn, tình nghĩa và sòng phẳng – đủ để giữ lại như một kỷ niệm đẹp.

 

Năm 1994, tôi thi đỗ vào tất cả các trường đại học khối B tại Sài Gòn. Đó là kết quả của niềm tin lớn, của một mục tiêu rõ ràng, và của sự dám đánh đổi những điều chưa cần thiết để lột xác cho đời mình. Chỉ cần tốt nghiệp được một trường đại học, vận mệnh sẽ sang trang. Câu hỏi “Học để làm gì?” – giờ đây, tôi đã có câu trả lời.

 

Tôi đã chấp nhận làm việc với giá rẻ để đổi lấy một tương lai đắt giá hơn. Và đó là một cuộc trao đổi xứng đáng.

 

Và cũng giống như những vùng đất mà tôi đã trải qua, vùng đất đỏ bazan, con người thật thà, và cả những tháng ngày lao động âm thầm... đã góp phần viết nên chương đầu cho một hành trình đổi đời.

 

 

Phần 7.3: Chuẩn bị tài chính

 

Cầm năm tờ giấy báo đậu đại học trên tay, tôi run run, mắt cay xè. Danh sách gồm Đại học Y Dược, Đại học Tổng hợp, Đại học Sư phạm, Đại học Đà Lạt và Đại học Nông Lâm. Học phí trường nào cũng cao ngất ngưởng: cao nhất 1.2 triệu đồng/học kỳ, thấp nhất 600,000 đồng/ học kỳ. Giá vàng năm ấy khoảng 360,000 đồng/chỉ.

 

Với tôi, không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chọn trường có học phí thấp nhất – đó chính là Đại học Nông Lâm, với mức 600,000 đồng/ học kỳ. Nghĩa là tôi phải kiếm được khoảng 3 chỉ vàng mới đủ trang trải. Tôi chỉ có 3 tháng để chuẩn bị mọi thứ, và cũng chừng ấy thời gian để xoay xở tiền bạc.

 

Tôi nghiên cứu đủ mọi phương án kiếm tiền, nhưng trong tình thế gấp gáp này, chỉ còn cách chọn nghề “làm thật cực, tiền vào thật nhanh”.

 

Tôi quay lại Ngãi Giao, tìm người anh thứ ba và đề nghị làm nghề đập bắp – tức bắp rang nổ. Công việc này cần chút ít kinh nghiệm, nhưng quan trọng là phải có vốn ban đầu để mua “nồi rang bắp”, sàn sấy bắp, bình xịt nước đường, lò rang, củi và cả bắp dự trữ…

 

Nói chung, phải có khoảng 3 triệu đồng mới lập được một “lò đập bắp” (Tức phải có một cây vàng).

 

Thế là lò đập bắp “Hai Đành” ra đời. Diện tích khoảng 5m x 10m = 50m², đặt trên phần đất nhà ông Hai Đành – vốn là một tiệm may đã đóng cửa sau khi cô con gái tên Linh đi lấy chồng.

 

Lò rang là một quả “bom” to tướng, chứa được 1–2 kg hạt bắp, được ông thợ tên Sỉn tiện kín, hàn chặt và gắn một cần khóa. Trên thân “bom” có hàn tay quay để xoay, giúp đảo đều hạt bắp bên trong. Ngay sát cần quay là đồng hồ báo áp suất. Bắp được đổ vào “bom”, nắp   an toàn khóa chặt, rồi đặt lên bếp lò rực lửa. Khi áp suất dâng đủ độ, người thợ đưa “bom” qua kệ bảo vệ, dùng búa gõ mạnh vào khóa an toàn. Một tiếng nổ lớn như bom vang lên, bắp trắng xóa bắn tung vào khay hứng. Sau đó, bắp được đưa lên sàn sấy, xịt thêm chút nước đường cho ngọt, đóng vào bao nylon và giao cho khách.

 

Mỗi mẻ đập bắp mất khoảng 10–12 phút, giá 700 đồng. Khách đông vô kể, chúng tôi làm không kịp ăn. Công việc không quá nặng, nhưng sức nóng từ lò khiến mồ hôi tuôn như tắm. Mỗi tiếng “đùng” vang lên là thêm 700 đồng bỏ túi.

 

Lò mở cửa từ 7 giờ sáng đến 6 giờ tối.

 

Ban ngày nổ bắp – ban đêm tôi dạy học miễn phí cho bà con chòm xóm.

 

Càng dạy, tôi càng thấy nghề này hợp với mình, và sau này khi vào đại học, “dạy kèm” trở thành nghề chính, nuôi sống suốt đời sinh viên.

 

Người ta thấy hình ảnh một chàng trai gầy gấy, thon thon. Ban ngày quần áo lem luốc, đốt lửa nổ bắp, mồ hôi ướt đẫm.

 

Ban đêm lại ăn mặc chỉnh tề trong vai ông giáo làng, kèm Toán – Hóa – Sinh từ lớp 5 đến lớp 12. Dạy từ 19h đến 20h, xong lại về lò bắp ngủ.

 

Mỗi ngày đều lặp lại đều đặn, và tôi làm việc ngày càng chuyên nghiệp, chính xác hơn.

 

Rồi ngày nhập học cũng đến. Lò nổ bắp đóng cửa, trả lại mặt bằng. Sau khi trừ chi phí, ba tháng lao động vất vả để lại trong tay chúng tôi 5 chỉ vàng, anh em chia đôi – tôi được 2.5 chỉ. Hai anh em nhìn nhau, cười thầm: Cực quá cực, nóng quá nóng. Nhưng với số tiền như vậy, thì kiếm đâu ra trong thời buổi kinh tế khó khăn tại vùng quê hẻo lánh này?

 

Cậu ruột ở Tam Kỳ - cậu 4 Bút, nghe tin tôi đậu Đại học, Cậu gửi cho 0.5 chỉ vàng. Tổng cộng tôi có đúng 3 chỉ vàng – vừa khớp với số tiền mong ước để làm hành trang nhập học.

 

Tạm biệt lò bắp, thương anh ba đã vì tôi mà chấp nhận làm thợ nổ bắp.

 

Thương cậu Bút đã gửi tặng một phần quà quý giá từ sự chắt chiu của Cậu.

 

Thương ông Hai Đành vì tôi mà cho thuê mặt bằng với giá tượng trưng.

 

Thương những người lao động nghèo ở Ngãi Giao khi ấy luôn chọn tôi làm khách hàng, tặng lời khen “lò nổ bắp xịn nhất, đầu tư bài bản, giá cả phải chăng”.

 

Thương những em học trò nghèo đã cho tôi niềm vui mỗi tối. Tôi đi, và biết sẽ không bao giờ quay lại. Có lẽ nghề nổ bắp chỉ đến với tôi một lần duy nhất trong đời.

 

Sau này, đi đâu, hễ nghe một tiếng “đùng” vang lên, trước mắt tôi như lại hiện ra tràng bắp trắng xóa, thơm lừng mùi bắp nổ.

 

Và rồi, tiếng “đùng” cuối cùng của lò bắp ngày hôm ấy như đánh dấu một chặng đường khép lại, mở ra hành trình mới – hành trình của một tân sinh viên rời quê, bước vào giảng đường với tất cả khát vọng và thử thách đang chờ phía trước.

 

 

 

(Xem tiếp tuần tới)