(Xem lại kỳ 6)

 

 

CẢM HỨNG ĐỂ VIẾT TIỂU THUYẾT “CU CHÍ – CU PHONG” LÀ TỪ NHÂN VẬT JD VANCE

 

Cu Chí – Cu Phong là tiểu thuyết tự truyện. Thạc sĩ Nguyễn Văn Phong, một nhà khoa học, một doanh nhân với cuộc đời trải qua nhiều nghịch cảnh, đã không đầu hàng mà vươn lên bằng đôi chân trần. Nhân vật Cu Chí – Cu Phong là hình ảnh ẩn dụ về chính tác giả: một đứa trẻ bị định kiến vùi dập, nhưng không sờn lòng, nản chí mà tận dụng năng lực và sức phấn đấu liêm chính giữa dòng đời sỏi đá để trở thành người kiến tạo giá trị cho xã hội.

 

Theo tác giả, tiểu thuyết là một hành trình thật – không tô vẽ – đầy nước mắt, nghị lực, và khát vọng sống. Nhân vật là chủ thể, không đổ lỗi cho thời thế, không tìm cách biện minh nhưng xác định giá trị và vì giá trị mà bươn tới để đạt lấy giá trị.

 

Ông muốn chia sẻ một bài học Phong để hiểu rõ tâm tình của ông sống động cho những ai từng bị bỏ trước khi khám phá các bí kíp thành lại phía sau, nhưng vẫn ước nguyện đạt của ông được trình bày rõ ràng, và có ý chí để làm chủ chính cuộc mạch lạc nhưng không kém phần thực đời mình. Hãy đọc Cảm hứng và Lời Tự sự của Thạc sĩ Nguyễn Văn Phong để hiểu rõ tâm tình của ông trước khi khám phá các bí kíp thành đạt của ông được trình bày rõ ràng, mạch lạc nhưng không kém phần thực tiễn, sôi động trong tác phẩm Cu Chí – Cu Phong

 

 

(Xem lại kỳ 6)

 

 

 

“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” – là nỗi mong nhớ bình yên, gia đình, người thương. Thơ chân thực, đau thương mà vẫn đẹp.

 

Ba tôi, người lính thua trận, dù bị đối xử bất công nhưng vẫn luôn dạy tôi:

– Tổ quốc không thể vô chính phủ. Phải có trật tự thì dân mới yên ổn. Tôi học được ở ông điều đó – sự quý trọng kỷ cương giữa thời loạn lạc.

 

Chương trình học mỗi ngày nặng hơn. Nhà tôi trở thành nơi học tổ của lớp tôi. Căn nhà trở nên sôi động, học tập say sưa và cũng là "khách sạn" đầy màu sắc cho chúng tôi sau những đêm mệt nhoài vì đèn sách.

 

Tôi nhớ, mùa đông giá lạnh, thiếu mền. Tôi và bạn Hải chui vào một cái quần ông loa. Mỗi người một ống quần. Tôi không hiểu từ đâu, nhà tôi có nhiều bộ đồ model, với quần ống loa rộng rinh, đủ chứa 2 cậu học trò ôm nhách như tôi và thằng bạn.

 

Cuối năm học, bạn bè chuyền tay nhau cuốn lưu bút ngày xanh. Những lời chân thật lần đầu được viết ra sau ánh mắt, nụ cười giấu kín bấy lâu. Phút chia tay đầy bịn rịn.

 

Tôi bâng khuâng tự hỏi: có chút gì riêng tư với ai không? Có khi nào… mình đã bỏ lỡ một điều gì đó?

 

Có một cô bé hàng xóm, dáng người mảnh mai như lá lúa, làn da ngăm khỏe, hàm răng trắng đều như bắp non mới bóc. Chiều nào cô cũng đạp xe chở nước mạch trong veo đi ngang nhà tôi – thứ nước nhỉ ra từ động cát, trong veo, mát lạnh, thơm mùi lá rừng.

 

Mỗi lần đi qua, ánh mắt cô cứ lặng lẽ nhìn vào căn nhà nhỏ – nơi tôi thường ngồi học bên cửa sổ.

 

Một lần, vì mải nhìn, chiếc xe nước nghiêng đổ. Tôi vội chạy ra đỡ. Cô lúng túng cúi đầu, mím cười bẽn lẽn, rồi líu ríu quay xe, trở lại bìa rừng lấy nước khác.

 

Cái khoảnh khắc ấy – thật nhanh, thật nhẹ – mà như in sâu vào tôi một điều gì khó gọi thành tên.

 

Tôi không biết đó là gì, chỉ là.     một chờ đợi dịu dàng mỗi buổi chiều.

 

Mỗi lần, tôi sang nhà cô xem ti vi – bộ phim “Tề Thiên Đại Thánh”. Cô đã chờ sẵn với cái ghế cóc nhỏ. Cô đứng lên trước, rồi kéo tay tôi đứng theo sau. Một làn hương nhẹ nhàng tỏa ra – mùi tóc, mùi áo, hay mùi của sự bối rối? Tôi không rõ. Chỉ biết tim tôi loạn nhịp.

 

Tôi viết vội vài câu thơ vào lưu bút của một bạn:

 

Mai em về, ôi đường xa, xa tít

Sao vô tình không thấy tuổi thơ đi

Dòng thời gian lặng lẽ… thầm thì

Hiểu không em – những gì trong đó…

 

Mai em về, cho tôi gửi chút hương vào gió

Hương học trò, bỡ ngỡ lắm em ơi

Rất ngây thơ, cũng rất dại khờ

Vô tư lắm – những giờ lên lớp!

 

 

Thầy Hương – giáo viên Văn, cũng là chủ nhiệm – đã chọn bài thơ này đọc trong lễ chia tay khối 12.

 

Sau ngày tốt nghiệp, tôi đi Sài Gòn, mang theo miền quê thơ ấu, hình bóng cô bé nhỏ và bầu trời kỷ niệm.

 

Mãi đến năm 2002 tôi mới trở lại - gần mười năm sau. Bạn bè hầu hết đã lập gia đình. Cô bé năm xưa cũng không ngoại lệ.

 

Còn tôi, "vẫn cô đơn, vẫn nhà trọ, vẫn cơm chợ" - như câu thơ cũ ...

 

Có lẽ, làm người là phải học cách chấp nhận những thứ không trọn vẹn.

 

Tôi ngước nhìn lũy tre xào xạc, bờ đề dài theo con đường học trò, ruộng lúa, đồng khoai, bến sông xưa và con đò nhỏ...

 

Tất cả còn đây. Chỉ người là không còn ở lại...

 

Hôm cuối cùng, lớp xôn xao nộp hồ sơ thi đại học. Tôi ngồi một mình dưới bụi tre đăng ngà – quê tôi gọi là tre Thánh Gióng. Đ. Hải, bạn thân, vỗ vai tôi, đưa 11,000 đồng:

 

-Mày vô đăng ký Trung cấp Y khoa Tam Kỳ đi. Gần nhà, học phí rẻ, ra trường có việc làm ngay. Thực tế lúc này phải chọn cái dễ trước đã. Thi xa, lấy gì sống?

 

Tôi nhìn tờ tiền mà muốn rơi nước mắt. Tôi đẩy tay bạn:

 

-Thôi, mày cũng khó khăn, giữ lấy mà đi thi. Tau quyết định không thi năm nay. Sẽ đi miền Nam, tìm cách sống, rồi tính tiếp.

 

Tháng 6 năm 1992, tôi tốt nghiệp phổ thông, và rời trường PTTH Tiểu La, lên đường vào Sài Gòn.

 

Đ. Hải đậu vào Trung cấp Y khoa, rồi sau lại bỏ nghề y sĩ để thi lại vào Đại học Bách khoa.

 

Tôi khâm phục nghị lực của bạn – người từng truyền tôi một bài học giản dị: làm cái dễ trước, rồi sẽ làm cái khó sau.

 

 

CHƯƠNG 5: RỜI QUÊ NHÀ, VÔ SÀI GÒN

 

Bước qua ngưỡng cửa quê hương bằng đôi chân trần, một khát vọng thay đổi thân phận và trái tim nhiều mơ ước – giữa một thế giới xa lạ, không bạn bè, không chỗ dựa, chỉ có niềm tin nhỏ nhoi và một gói xôi gói bằng lá chuối quê nhà.

 

 

Phần 1: Đất hứa

 

Đêm ấy, tôi đọc đi đọc lại câu thơ của nhà thơ Bùi Giáng:

 

“Đường đi xa tít cháu đi – Đường về xa tít… cháu về được không?”

 

Đi đã khó, mà về còn khó hơn. Một chàng trai mười tám tuổi, không bạn bè, không người thân, không tiền bạc, không nghề nghiệp… chỉ có một tấm bằng phổ thông trung học – liệu có tồn tại được không? Sống thế nào? Làm gì để sống? Liệu có cơ hội nào để tiếp tục học tập?

 

Ánh trăng rọi qua hàng cau trước hiên, tạo nên những mảng sáng tối đan xen. Rạch ròi như một mệnh đề: hoặc sáng, hoặc tối. Không có chỗ cho vùng xám. Đi, hay không đi? Câu hỏi cứ bám lấy tôi. Và câu thơ của ông Bùi Giáng cứ lởn vởn trong đầu. Rồi tôi cũng thiếp đi trong những trăn trở.

 

Sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy, nhìn xuống giếng nước. Nước sâu, trong vắt, phản chiếu một Cu Chí đang ở ngưỡng đôi mươi, chuẩn bị rời xa mái nhà thân yêu. Tôi nhìn cây ô ma – ba tôi trồng từ mấy chục năm trước – vẫn đứng đó, lặng lẽ, trĩu quả vàng óng như một thứ báu vật. Cây cau, cây chanh, cây bòng, cây ổi… đều đứng một chỗ rồi cũng sẽ chết ở một chỗ. Trăm năm – một chỗ.

 

Bỗng như có một cú hích xé toang ý nghĩ chôn chân tại chỗ. Đi – để trở về. Đi – để mở rộng. Đi – để học hỏi. Đi – để ngày mai tươi sáng hơn.

 

Bé Mộng Loan – em bạn dì tôi, cũng là bạn học cùng lớp 12 – đưa tôi một mảnh giấy có ghi địa chỉ của chú Quế - Một người quê, đang là Hiệu trưởng một trường làng tại vùng đất Mũi thuộc huyện Đầm Dơi. 

 

– Đây là địa chỉ chú ruột của em ở huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Nghe nói, những ai có bằng cấp PTTH thì có thể được dạy học cấp 1, cấp 2.

 

Tôi cầm tờ giấy, không thể hình dung nổi miền đất nằm tít tận Cà Mau ấy ra sao.

 

Tôi chưa từng ra khỏi tỉnh Quảng Nam. Học hành thì loanh quanh thị trấn Hà Lam, thi thoảng mới vô thị xã Tam Kỳ, Hội An rồi quay về. Ngay cả việc đặt chân tới Đà Nẵng cũng từng là một kỳ tích. Huống hồ chi một nơi xa đến gần 1,500 km?

 

Tôi quyết định: Sài Gòn sẽ là bước nhảy đầu tiên. Sau đó sẽ là Cà Mau, như gợi ý từ Mộng Loan. Tôi mở cuốn tập tiếng Pháp, lật lại một ghi chú của cô tôi:

 

“Les enfants qui n’ont pas de mère doivent décider de tout dans leur vie” (Những đứa trẻ mồ côi mẹ phải tự quyết định tất cả mọi điều trong cuộc đời mình.)

 

Tôi lấy một chiếc bao lát – loại bao đựng phân Urea bằng sợi nylon – thay cho giỏ xách. Tôi xếp vào đó vài quyển sách chủ lực: Toán Sơ cấp tập 1, 2, 3 của Phó Đức Chính, vài quyển Hóa học (hình như của Chu Phạm Ngọc Sơn), vài bộ quần áo trắng học trò, bộ đồ vía – chiếc quần rin “xịn sò” mua bằng những đồng tiền cực nhọc đãi sạn ở cầu Hương An. Cây đàn guitar Huế – kỷ vật lớn nhất của tôi – cũng là từ những ngày nhọc nhằn ấy. Tôi để lại một mẫu giấy nhỏ, ghi: “Tặng Dung – Tạm biệt. Ở lại ráng học thành tài"

Tôi nói dối ba:

 

– Con vô Sài Gòn thi đại học cùng tụi bạn.

 

Ông mừng lắm, mong tôi đỗ đạt. Số tiền ông có, đủ mua một vé xe khứ hồi Sài Gòn – Đà Nẵng: 50,000 đồng. Tôi tích cóp được 55,000 đồng từ những ngày đãi sạn. Tổng cộng: 105,000 đồng. (Lúc đó, một chỉ vàng khoảng 200,000 đồng).

 

Khuya 26/06/1992, tôi thức trắng chờ tiếng gà gáy canh một. Ba tôi dậy sớm, đãi tôi một bữa cơm “thịnh soạn”: lòng heo và cơm trắng – không độn sắn, khoai.

 

Thời ấy, đó là điều xa xỉ. Dưới ánh đèn dầu leo lét, ánh sáng và bóng tối hòa quyện, mùi nước mắm thơm lựng quyện cùng cơm nóng và mùi cay nồng – như báo hiệu một cuộc đời mới.

 

Xe thồ đợi sẵn trong sân. Tôi thắp cho mẹ một nén nhang, cầu bà phù hộ. Câu thơ Bùi Giáng lại vọng về trong đầu: “Đường đi xa tít cháu đi…” Đi xa thật rồi… còn đường về – liệu có?

 

Ba tôi không biết rằng, tôi chẳng hề có ý định thi đại học. Tôi nói dối. Tôi đi để tìm đường sống – một hành trình mà chính tôi cũng không rõ tương lai sẽ thế nào.

 

Xe thồ chở tôi đến ngã tư Hà Lam – bạn Mến đã đợi sẵn. Hồi đó, chỉ cần đứng ven đường, là có thể bắt xe khách tuyến Đà Nẵng – Sài Gòn. Chúng tôi leo lên xe. Xe chật ních. Tôi ái ngại. Nhưng phụ xe quát lớn:

 

– Ráng ngồi tạm ghế cóc. Qua Quảng Ngãi khách xuống, sẽ đổi chỗ có ghế dựa. Yên tâm!

 

Chúng tôi bị nhét vào hàng ghế cóc – giữa lối đi chật hẹp. Xe lắc lư như răng sắp rụng. Chưa đầy một giờ, hành khách bắt đầu ói mửa. Có người ói lên lưng tôi. Tôi cũng không cầm được. Mùi nôn mửa hòa lẫn mùi dầu nhớt, mùi người, mùi mồ hôi… tạo thành một hỗn hợp không thể chịu đựng nổi.

 

Chặng đường từ Đà Nẵng vào Sài Gòn hồi ấy thường mất hơn một ngày đêm. Mỗi khi xe dừng lại, chủ quán ăn dùng hàng rào tạm vây hết khách lại – bắt buộc ai cũng phải vào quán, không ai được thoát. Lực lượng bảo vệ của quán rất dữ, lùa khách như lùa gia súc, gia cầm.

 

Tôi mang túi tài sản nhỏ – bên trong chỉ có vài quyển sách, bộ quần áo trắng và một khay xôi gói bằng lá chuối – thứ thức ăn tôi mang theo từ quê. Khi vào quán, tôi chỉ dám gọi một ly nước mía. Bọn bảo vệ nhìn tôi như nhìn một kẻ keo kiệt: có bao tiền to thế kia mà chỉ ăn xôi?

 

Tôi không thể ngủ. Xe cứ lắc lư, rung lên từng hồi. Tôi nhìn ra cửa sổ: những bảng quảng cáo to lớn kinh khủng, lần lượt trôi ngược về phía sau – thứ tôi chưa từng thấy ở vùng quê mình. Các vùng dọc Quốc lộ 1 chưa hề có nhà cao tầng, đô thị hóa như bây giờ – chỉ toàn cây cối và vài bảng hiệu to hơn mái nhà.

 

Trộm cắp khi ấy tràn lan. Trên xe đò, trong quán ăn… chỉ cần sơ hở là mất. Tôi giấu số tiền ít ỏi ấy vào hang hốc đặc biệt trong người – trừ khi tôi chết thì nó mới mất được.

 

Rồi xe cũng đến Bến xe Miền Đông. Loa phóng thanh vang lên:

 

-Chào mừng quý khách đến bến xe miền Đông. Xin giữ gìn tài sản cá nhân, đề phòng kẻ gian…

 

Tôi bước xuống, nhìn quanh – một nơi xa lạ, đông đúc, ồn ào. Tôi thầm nghĩ: có thể mình đã chọn đúng. Có thể vùng đất này sẽ nâng đỡ tôi. Sài Gòn – nơi quá xa như câu thơ của cụ Bùi Giáng – bây giờ đã ở ngay trước mắt.

 

Câu hỏi hiện lên: “Liệu có còn ngày trở lại quê nữa không?”

Và: “Ai sẽ là người đầu tiên dang tay đón tôi trong tình cảnh tay trắng này?”

 

* Tôi đã rời quê như thế – với một bao sách cũ, một gói xôi, vài bộ đồ một ít tiền và một niềm tin câm lặng rằng: Cuộc sống không tuyệt đường cho bất kỳ ai, miễn là mình dám bước đi và đối diện với gian nan, khó nhọc.

 

 

Phần 2 – Gặp quý nhân

 

Cửa xe chưa kịp mở, đã thấy nhiều chủ xe xích lô đứng vẫy tay mời gọi:

 

-Về đâu, về đâu mấy chú em?

 

-Về đâu… chân trời này bồng bềnh – tôi thì thầm, liếc bạn, khẽ cười.

Tôi liếc bạn, mỉm cười. Nhìn chúng tôi, người gầy còm, khoác bao phân bón Urea, trông chẳng khác gì dân lỡ vận lang bạt. Có lẽ vì vậy mà không ai mặn mà chèo kéo. Duy chỉ một người đàn ông đội nón tai bèo bạc màu, âm thầm đi theo sau, ra tận cổng bến xe.

 

Bạn Mến mở tờ giấy có ghi địa chỉ người thân: Khách sạn XYZ, số … đường CMT8, Tân Bình – phía sau bệnh viện Thống Nhất.

 

Người đàn ông khẽ gật đầu:

 

-Được rồi, tôi chở các chú về đó. Mười hai ngàn thôi, không cần trả giá. Tôi người Vĩnh Long, lên đây chạy xe nuôi hai đứa con ăn học. Nhìn các chú, tôi biết dân miền ngoài vô Sài Gòn thi cử. Quần áo, vẻ mặt… giống con tôi lắm.

 

Một sự đồng cảm, chúng tôi gật đầu, lên xe. Mỗi vòng đạp của ông như từng bước chân đẩy chúng tôi vào một vùng đất mới, vừa lạ vừa run. Xe dừng trước cánh cổng cao, tường dài, hai cánh cửa sắt đóng kín. Tôi bấm chuông. Gần năm phút sau, cửa hé mở, hiện ra hai cô gái như búp bê sống: Quần ngắn cũn, lôt đôi chân dài thon, trắng phau, gương mặt sắc sảo.

 

Tôi ngẩn người, hoảng hốt: “Lộn chỗ rồi chăng? Đây là khách sạn hay sàn diễn thời trang?”

Một cô lên tiếng, giọng ngọt như ru:

 

-Các anh cần gặp ai? Em giúp được gì?

 

Bạn Mến run tay đưa tờ giấy. Cô gái liếc qua, rồi mỉm cười:

 

-À, đây là Sếp của tụi em. Các anh đợi chút, em vào trình.

 

Chúng tôi bước vào sân, lặng lẽ. Một toà nhà lớn, bãi cỏ xanh mướt. Tôi không dám nhìn thẳng, thấy mình lạc lõng, quê mùa. Một lát sau, người đàn ông trung niên bước ra, tay cầm mảnh giấy. Ông ăn mặc giản dị, gương mặt phúc hậu, nói nhẹ nhàng:

 

-Chú là chú 3 Nam đây. Vào nhà nghỉ ngơi đi, chuẩn bị thi cử cho tốt.

 

Giờ tôi mới biết – đây là ông Lê Văn Nam, người xứ biển quê tôi. Ông vào Sài Gòn lập nghiệp từ sớm, nay đã thành đạt: làm khách sạn, xây dựng, sản xuất… Ông từng lập xí nghiệp que hàn ở Thăng Bình. Người dân quê tôi truyền tai nhau rằng: Ông là một trong những doanh nhân giàu có nhất lúc bấy giờ.

 

Ông gọi nhân viên đưa chúng tôi vào phòng. Qua đại sảnh, tôi thấy mấy bộ bàn bi-da, một cây nĩa và muỗng lớn treo tường.

 

Tôi thầm nghĩ: “Xứ này ăn uống sao mà dùng đồ to dữ vậy? Chẳng lẽ …” Nhân viên dừng lại, trao chìa khoá:

-Đây là phòng của các anh. Sếp nói tắm rửa xong thì ra phòng ăn dùng bữa với Sếp.

 

 

 

(Xem tiếp tuần tới)