CẢM HỨNG ĐỂ VIẾT TIỂU THUYẾT “CU CHÍ – CU PHONG” LÀ TỪ NHÂN VẬT JD VANCE
Cu Chí – Cu Phong là tiểu thuyết tự truyện. Thạc sĩ Nguyễn Văn Phong, một nhà khoa học, một doanh nhân vi cuộc đời trải qua nhiều nghịch cảnh, đã không đầu hàng mà vươn lên bằng đôi chân trần. Nhân vật Cu Chí – Cu Phong là hình ảnh ẩn dụ về chính tác giả: một đứa trẻ bị định kiến vùi dập, nhưng không sờn lòng, nản chí mà tận dụng năng lực và sức phấn đấu liêm chính giữa dòng đời sỏi đá để trở thành người kiến tạo giá trị cho xã hội.
Theo tác giả, tiểu thuyết là một hành trình thật – không tô vẽ – đầy nước mắt, nghị lực, và khát vọng sống. Nhân vật là chủ thể, không đổ lỗi cho thời thế, không tìm cách biện minh nhưng xác định giá trị và vì giá trị mà bươn tới để đạt lấy giá trị.
Ông muốn chia sẻ một bài học Phong để hiểu rõ tâm tình của ông sống động cho những ai từng bị bỏ trước khi khám phá các bí kíp thành lại phía sau, nhưng vẫn ước nguyện đạt của ông được trình bày rõ ràng, và có ý chí để làm chủ chính cuộc mạch lạc nhưng không kém phần thực đời mình. Hãy đọc Cảm hứng và Lời Tự sự của Thạc sĩ Nguyễn Văn Phong để hiểu rõ tâm tình của ông trước khi khám phá các bí kíp thành đạt của ông được trình bày rõ ràng, mạch lạc nhưng không kém phần thực tiễn, sôi động trong tác phẩm Cu Chí – Cu Phong.
Chúng tôi thở phào. Vừa ngồi lên nệm đã bị bật ngửa – chiếc nệm lạ lẫm, êm ái đến lạ. Nội thất phòng sang trọng vượt xa mọi thứ tôi từng thấy, kể cả nhà ông Sáu Phụng – người giàu nhất quê tôi cũng không thể nào sánh bằng.
Tôi vào nhà tắm, thấy treo hai chiếc quần lót – một nam, một nữ, màu trắng tinh, thiết kế tinh tế, ren mỏng, hoa văn đẹp, gợi cảm.
Tôi hoa mắt. Bạn tôi cười tủm tỉn:
– Trời đất, quần của ai bỏ quên vậy ta? Gọi nhân viên vô lấy đi, chớ treo đó, sao mình dám tắm?
Rồi nó lẩm bẩm: “Tội nghiệp con gái quê mình…”
Tôi cúi đầu, lòng nặng trĩu. Thân phận mình, thân phận quê tôi… thật quá nhỏ bé giữa chốn phù hoa.
Bỗng tiếng la thất thanh:
-Cứu với! Nước nóng quá!
Tôi chạy vào, thì ra bạn tôi vặn nhầm vòi. Nó vẫn giữ thói quen quê: chỉ cởi 90%, còn lại giữ lại chiếc quần đùi… như thể “giữ phẩm giá” cho thanh xuân.
Tắm rửa xong, chúng tôi thay đồ, ra phòng ăn. Chú Ba Nam đã ngồi đợi, trò chuyện vui vẻ về quê nhà. Tôi nhìn khung cảnh khách sạn, nhân viên, khách ra vào… rồi khẽ nói:
-Thưa chú Ba, con biết ơn chú nhiều. Nhưng thật lòng, nơi này không hợp với tụi con. Ở đây ngại lắm. Mong chú giúp tụi con chỗ ở đơn sơ hơn để tiện thi cử.
Chú gật gù, rồi gọi điện. Một lát sau, một người đàn ông xuất hiện. Bạn Mến reo lên:
-Chào anh Liên! Tụi em vô Sài Gòn thi đại học, may quá gặp anh ở đây.
Anh Liên – người học chung với anh Lời, sống cùng xóm tôi – giờ đây đứng trước mặt tôi, phúc hậu, hiền lành, dáng người tròn trịa. Anh cười nói:
-Về nhà anh đi. Khách sạn cao cấp thế này, nhìn gái đẹp, không thi nổi đâu!
Chúng tôi cười ngượng. Quả thật, xứ gì mà phụ nữ vừa xinh đẹp vừa sang trọng thế…
Anh Liên gọi hai chiếc xích lô. Đưa chúng tôi về nhà anh – ở đường Nơ Trang Long, Bình Thạnh. Hồi đó, Sài Gòn còn nhiều đường đất đỏ, đá cấp phối. Ngay cả đường Cộng Hòa vẫn còn lởm chởm. Các quận khác, đường đất đỏ hục hang, trơn trượt như đường làng quê.
Nhà anh Liên nằm trong con hẻm nhỏ, gần hồ bơi Yết Kiêu bây giờ. Hẻm quanh co, hẹp vừa đủ cho hai xe xích lô tránh nhau, hai bên vẫn còn nhà tranh, mồ mả, tiếng cãi vã, tiếng xe máy inh ỏi, đủ các phương ngữ khác nhau, miền Tây, miền Trung, miền Bắc một xóm điển hình cho dân di cư từ nhiều vùng miền khác nhau, tới Sài Gòn mưu sinh.
Anh Liên được mọi người trong xóm mến quý. Nhà còn có anh Hoa, sinh viên Luật. Sát bên là anh Hạnh – người Đồng Tháp, xăm mình kín người nhưng gương mặt hiền khô. Nghe có em của anh Liên tới, anh Hạnh mang qua ít "bánh ít" ăn lấy thảo.
Căn nhà cấp 4 nhỏ nhưng đủ tiện nghi. Hôm sau, nhà đông nghịt – hơn chục sỹ tử tá túc thi đại học. Ai cũng ôn bài căng thẳng. Riêng tôi, chẳng có gì để học. Tôi chỉ “đi ké” bạn Mến – họ hàng xa của chú Ba Nam và anh Liên. Giả vờ ôn bài, nhưng kỳ thực chỉ mong kiếm được việc làm để bám trụ. Nhiều lần muốn mở miệng hỏi anh Liên, anh Hoa, nhưng ngại làm phiền nên lại thôi. Đành cười đùa góp chuyện cho có, còn lòng thì rối như tơ vò.
Cả bọn góp tiền ăn, anh Liên nhất quyết không lấy. Anh tự tay gom thực phẩm, nấu nướng đãi một bầy học trò nghèo, miệng lúc nào cũng bảo: “Ráng thi đậu đi, ăn uống có là bao, để anh lo.” Tấm lòng ấy, tôi luôn khắc ghi.
Lịch thi năm ấy, bắt đầu từ cuối tháng 6, kéo dài tới trung tuần tháng 7. Buổi sáng đầu tiên, ai nấy lỉnh kỉnh giấy tờ, người kêu xích lô, người gọi xe ôm. Tôi cũng xách túi ra khỏi nhà – nhưng không tới điểm thi, mà rẽ vào… công viên.
Đó là công viên nhỏ đối diện Bưu điện quận Bình Thạnh; chếch bên là Đại học Mỹ thuật, xa hơn chút là bệnh viện Bình Thạnh. Tôi chẳng biết mình ngồi đó để làm gì – có lẽ vì gần nhà anh Liên, hoặc có lẽ… vì chẳng biết phải đi đâu.
Ngước lên bầu trời trong vắt, vài tán cọ chen giữa mây trắng. Thân cọ trông giống dừa, nhưng lá xòe như những cánh tay xanh biếc, tựa đang nâng tôi lên khỏi mặc cảm. Mắt bỗng cay cay:
“Cọ ơi, đất khách này rồi tôi sẽ là gì?”
Mây vẫn trôi, lá cọ khẽ chao như đáp: “Đừng sợ, rồi sẽ qua thôi.” Tôi tự trấn an mình như thế.
Tôi tản bộ sang lăng Ông – Tả quân Lê Văn Duyệt. Lần đầu chứng kiến nơi thờ phụng một bậc khai quốc công thần mà trước giờ chỉ thấy qua sách vở. Khu lăng rộng, nhiều cổ thụ, bố cục thờ phượng trang trọng như miếu thờ Thần linh. Bước qua từng khoảng sân giếng trời tĩnh lặng, tôi có cảm giác được gột rửa, tiếp thêm can đảm trước khi vào chính điện.
Trong gian thờ trung tâm, pho tượng đồng uy nghi như nhìn xoáy thẳng vào tôi. Tôi quỳ xuống, khấn vái, xin quẻ. Lá xăm rơi vào quẻ Khảm: hiểm nguy, gian khó.
Tôi nhắm mắt – “Nếu không tìm được việc mưu sinh, thì hiểm nguy quá rõ rồi…” Rời lăng, tôi men theo con đường qua chợ Bà Chiểu. Giữa dòng người tấp nập, tôi thầm ước: “Giá có ai vỗ vai, bảo ‘Nè chú em, vô đây làm, đủ cơm ba bữa!’”
Sài Gòn khi ấy cho tôi một niềm tin lạ lùng: vùng đất này sẽ bao dung kẻ tay trắng như tôi, miễn là còn dám ước mơ.
Tối về, căn nhà nhỏ lại rộn ràng. Mọi người xôn xao phân tích đề thi, khoe đáp án. Tôi lặng lẽ nghe, tim thắt lại. Ước gì mình cũng được ngồi trong phòng thi như họ. Nhìn lướt qua mấy bộ đề, tôi biết mình không phải kém cỏi; điều tôi thiếu là thời gian lo miếng ăn và tiền đóng học phí – khóa của tôi lại vừa chấm dứt bao cấp.
Nhưng trước hết, tôi phải sống đã. Tôi tự nhủ: “Ngày mai phải tìm việc, dù nhỏ bé thế nào, nặng nhọc ra sao, miễn đủ tiền để được ở lại thành phố này.”
Thời kỳ đó, đề thi đại học cực khó, nhưng tất cả đề đều nằm trong “Bộ đề” sẵn. Ai học hết, nhớ kỹ, là có thể đậu. Vì vậy, chỉ cần chăm chỉ, thì ngưỡng cửa vào đại học là có thể. Một người có thể thi 4–5 trường. Có khoa không cần thi: như Vi tính – vì mấy ai hiểu nó là gì? Đăng ký còn không ai học. Thi không khó, nhưng đậu rồi. lấy gì mà học?
Khóa tôi là khóa đầu tiên xoá bỏ bao cấp - muốn học phải đóng học phí. Nên phải có tiền, không tiền thì con đường học có nguy cơ khép lại.
Nửa tháng sau, các sỹ tử lần lượt ra về. Nhà anh Liên vắng dần. Tôi cũng phải đi. Muốn hỏi anh việc làm, nhưng ngại làm phiền anh.
Lật tờ giấy có địa chỉ chú Quế – chú ruột của bé Mộng Loan, tôi bèn hỏi anh Hạnh đường đi Đầm Dơi. Anh chỉ tận tình, rồi đích thân chở tôi ra bến xe Miền Tây.
Tôi tự nhủ: Thêm một lần đi xa, như là một hành trình khám khá. Cần nhìn tổng thể để chọn nơi mưu sinh.
CHƯƠNG 6: ĐỊNH MỆNH
Có những ngã rẽ không nằm trong bất kỳ bản đồ nào, và có những cuộc gặp như thể định mệnh đã âm thầm sắp đặt từ trước. Tôi không chắc, nhưng đang từng bước đi vào một chương mới của đời mình. Nơi tưởng như là điểm kết thúc, nhưng lại là nơi bắt đầu.
Phần 6.1: Đi Cà Mau
Tích lũy trước khi lên đường
Trước khi dám xuôi Cà Mau, tôi phải có chút vốn phòng thân. Tôi xin vào tốp đổ bê tông công trình khách sạn Khải Hoàng, quận 10. Hồi ấy, đổ bê tông hoàn toàn thủ công: gánh từng xô, rót liên tục tới khi xong cả sàn, bất kể ngày đêm. Đổi lại, thợ được ăn – ngủ tại chỗ và hưởng công cao: 12,000 đ/ngày (so với 7,000 đ của lao động phổ thông). Với kẻ đói việc như tôi, đó là “thiên đường” – vừa có cơm, chỗ ngủ, vừa nhận tiền ngay khi kết sàn.
Kinh nghiệm “đóng cọc” đầu đời
Ngoài bê tông, tôi còn theo anh Đoàn Ngọc Diệp – sinh viên năm 4 Đại học Thủy sản, con một đại úy VNCH – đi “đóng cọc” thuê. Tôi gặp anh tình cờ tại CLB Phan Đình Phùng sau giờ làm; nghe anh bảo “việc nặng, lương cao”, tôi theo luôn.
Cọc là những thân tràm nước dài 5 m dùng gia cố nền nhà ổ chuột ven kênh. Nhiệm vụ của tôi: ôm cọc, cắm xuống lòng kênh đen đặc; rồi kẹp chân leo lên đầu cọc, dùng dùi cui nện tới khi cọc lún ngang sàn nhà dân.
Nước kênh sánh đặc rác rưởi, mùi hôi thốc vào óc – nhưng 15,000 đ/ngày đủ mạnh để tôi quên gớm ghiếc. Ban đầu ói mửa liên hồi, dần rồi cũng quen. Đầu cọc phủ kín lòng kênh, chỉ còn hàm răng bọn tôi trắng lóa giữa bùn đen.
Anh Diệp cười vỗ vai:
– Khá lắm! Mới vô mà coi bộ khá, mai mốt lên thợ cả! Tôi cười xòa, cố xóa đi thứ nước đen đang rỏ trên vai.
Bà chủ nhà tốt bụng mang nước chanh đá ra, nói đùa: “Chiến sĩ đô thị phải có nước tiếp tế chớ!”
So với việc “đãi sạn” ở cầu Hương An quê tôi, đóng cọc tuy hôi tanh nhưng ít nặng nhọc, lại được trả cao. Nghĩ tới dĩa cơm chỉ 1,000 – 1,500 đ, tôi thầm tính: một ngày cọc = hơn chục bữa cơm; làm đều vài tháng đủ mua chiếc xe máy, thậm chí xoay được nền đất ngoại thành (khi ấy vỏn vẹn 5 chỉ vàng – khoảng 1 triệu đồng). Thế nhưng trong tôi vẫn cháy khao khát giảng đường. Thấy anh Diệp nói tiếng Anh như gió, đánh máy mười ngón, đi chiếc xe đạp màu bordeaux, đeo Walkman, tôi mơ một ngày cũng sẽ oai phong dường ấy – chứ không mãi lặn ngụp dưới kênh bẩn.
Phải kiếm cho đủ tiền rồi trở lại đại học! Ánh sáng ấy bùng lên trong tôi.
Chia tay Sài Gòn.
Trước hôm đi, tôi ra chợ mua ít đồ, nấu một nồi bún cá ngừ đãi anh Liên, anh Hoa thay lời cảm ơn. Sáng sớm, anh Hạnh tiễn tôi tới bến xe Miền Tây, dặn:
- Đến quầy vé Cà Mau, mua xong thì xuống bến tàu về Đầm Dơi. Dân miền Tây hiền khô, cứ hỏi là họ chỉ. Bảo trọng nghen!
Xe lăn bánh, gió tạt mát rượi. Hai bên cửa kính, ruộng vườn lùi dần; đâu đó thấp thoáng mái tranh, hàng dừa. Mỗi lần xe dừng, khách xuống ăn uống tự do – không cảnh “rào nhốt” như chặng dài Đà Nẵng – Sài Gòn.
Tôi bất giác thấy mình già dặn hẳn. Giá có Mến, hay mấy đứa Hải, Bình, Phước đi cùng để dìu nhau như thuở ở quê… Tôi cũng thèm một lời nhắn động viên của cô gái quê nhà, đủ làm ấm tim giữa hành trình trắc trở.
Bến tàu Cà Mau
Chiều xế, bến xe Cà Mau hiện ra. Tôi mon men hỏi bến tàu Đầm Dơi. Trước mắt, sông nước mênh mông, ghe tàu chen chúc; trên boong, hàng hóa và người dồn đầy sát mép, chỉ cách mặt nước gang tấc. Một con sóng mạnh thôi cũng đủ lật.
Nhớ tới quẻ Khảm xin ở lăng Ông, tôi thoáng rùng mình. Hay vận xui bắt đầu từ đây? Tôi muốn ở lại Cà Mau qua đêm, sáng hẵng đi, nhưng tài công giục:
- Đi mau! Trời mà mưa là tới Đầm Dơi tối mịt!
Bị đẩy như số phận an bài, tôi bước lên chiếc giỏ lãi kéo dài. Ghế là những thanh gỗ bắc ngang. Người ngồi kín, mép mạn chỉ thấp hơn mặt nước chừng hai tấc.
Tàu nổ máy, phóng băng băng. Mỗi lần ghé bến trả khách, tim tôi hạ một nhịp – lỡ có chuyện còn gần bờ mà bơi.
Tôi sốt ruột tự hỏi: “Bao giờ tới Đầm Dơi? Từ đó còn bao xa nữa mới tới nhà chú Quế?” Mặt trời khuất dần, bóng tối lấn nước. Lo âu trong tôi dâng lên, như linh cảm điều chẳng lành
Phần 6.2: Lật thuyền
Về đến Đầm Dơi thì trời đã tối hẳn. Nước sông chuyển màu sẫm đen, đục ngầu. Thuyền vẫn còn đón trả khách liên tục. Tôi không biết từ đây đến nhà chú Quế còn bao xa. Chiếc thuyền nhỏ vẫn tròng trành, đầy ắp người, mỗi lúc một thêm chật chội. Cảm giác bất an dâng lên trong tôi từng đợt. Và rồi điều gì đến cũng đến.
Một con sóng mạnh quăng tới. Người trên thuyền nhốn nháo. Thay vì ngồi yên, ai nấy hoảng hốt đứng dậy, la hét. Một vài người chuyển chỗ khiến thuyền mất thăng bằng. Nước tạt lên mạn thuyền. Tài công cố bẻ lái để giữ thuyền, nhưng không kịp
– con thuyền nhỏ lật úp, người người chìm ngỉm xuống dòng nước lạnh đen.
Tôi cố ngoi lên, chới với với tay tìm chiếc túi xách nhưng không kịp. Nước đã cuốn trôi mất. Tôi bơi vào bờ, may thay, phần lớn mọi người cũng kịp vào bờ an toàn. Nhưng toàn bộ tư trang của tôi đã mất sạch. Nhìn dòng nước cuồn cuộn cuốn đi chiếc bao urea thân quen, tôi chết lặng.
Thế là hết. Cuộc đời tôi dừng lại ở đây sao?
Tôi nhớ đến quẻ xăm Khảm mình xin tại lăng Ông. Quẻ cảnh báo hiểm nguy, rủi ro – và bây giờ nó đã ứng nghiệm. Có người may mắn vớt lại giỏ xách, còn cái bao lát urea của tôi thì trôi biệt dạng. Giấy tờ cá nhân, bằng cấp, sách vở, quần áo – tất cả trôi theo con nước vô tình.
Ước mơ của tôi cũng như vậy – chìm sâu dưới đáy dòng sông.
Đội cứu hộ cũng đến, họ cố gắng trục vớt con thuyền. Trên bờ, nhiều người khóc nức nở vì sợ hãi, vì mất mát. Tôi ngồi một mình, lặng thinh, cảm ơn đất trời vì vẫn còn sống. Cảm ơn những ngày thơ bé chăn bò bên sông Trường Giang, cảm ơn dòng nước quê hương đã dạy tôi biết bơi – nhờ đó mà thoát khỏi lưỡi hái tử thần trong gang tấc.
Tôi ngước nhìn lên bầu trời tối mịt. Cố nuốt nước mắt vào lòng. Gió đêm thổi lạnh buốt. Tôi chỉ ước lúc ấy có được một bộ đồ khô, một đôi dép, một miếng ăn… để có thể đi tiếp hành trình dang dở. Bằng mọi giá, tôi phải gặp được chú Quế.
Hai bên bờ sông vắng lặng như tờ. Quang cảnh đêm đen và những nhánh cây trơ trọi làm tôi liên tưởng đến những thước phim “Cánh đồng hoang” mà ngày xưa tôi từng xem ở rạp chiếu bóng quê nhà. Cảm giác trơ trọi, lạc lõng giữa sóng nước bất định. Tôi tự hỏi: Ai sẽ nhận ra tôi? Tôi lấy gì để chứng minh thân phận mình? Câu chuyện gặp chú Quế để xin đi dạy học như lụi tắt theo ngọn sóng vừa nuốt mất cả giấc mơ.
Lòng tôi rã rời. Câu thơ của Bùi Giáng lại văng vẳng:
“Đường về… xa tít, cháu về được không?” Tôi lẩm bẩm, môi run.
Tiếng tài công vọng lên giữa tiếng gió:
-Lên tàu đi tiếp! Nhà tàu sẽ đưa bà con về tận nơi, an toàn. Ông nhìn tôi, hỏi:
-Chú em về đâu?
-Dạ… em tìm về nhà chú Quế, ở Tân Duyệt ạ.
-À, ông giáo Quế – hiệu trưởng? Ở đây ai mà không biết. Quý lắm. Nhà thầy dễ tìm thôi, sắp tới rồi.
Tàu cập bến. Tôi là một trong những người khách cuối cùng bước lên bờ. Những lời nhận xét tốt đẹp về thầy Quế khiến tôi yên tâm phần nào.
Quần áo tôi ướt sũng, lấm lem bùn đất, đôi dép cũng đã trôi mất. Tôi được vài người tốt bụng chỉ đường đến nhà thầy Quế.
Trước mắt tôi hiện ra một căn nhà lá dựng kiểu nhà sàn, gọn gàng và khá nên thơ. Chung quanh là cây tạp bao phủ. Tôi gõ cửa. Một người đàn ông gầy, da trắng, ra mở cửa.
(Xem tiếp kỳ sau)