Tôi đứng bên này sông, bên kia vùng lửa khói
Làng tôi đây, bao năm dài chinh chiến
Từng luỹ tre muộn phiền
Tôi có người vợ ngoan đẹp như trăng mười sáu
Cưới rồi đành xa nhau.
Nhớ đôi môi nàng hiền, xinh xinh màu nắng
Má nàng hồng thơm mùi thơm lúa non
Ai ra đi mà không từng bịn rịn
Xa người yêu mà dễ mấy ai vui.
Em nhìn theo bằng nước mắt chia phôi
Tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ.
Này anh lính chiến, người bạn pháo binh
Mẹ tôi tóc sương từng đêm nghe đạn pháo rơi thật buồn
Anh rót cho khéo nhé, kẻo lầm vào nhà tôi
Nhà tôi ở cuối chân đồi
Có giàn thiên lý, có người tôi thương.
Năm 1949, nhà thơ Yên Thao công tác ở Văn nghệ Liên khu 3, trong một lần cùng đơn vị tham gia đánh một “đồn” quân Pháp ven sông ở một Làng Đồi trong lúc chờ nổ súng, anh trò chuyện với một chiến sĩ quê ở ngay Làng Đồi (địch đang chiếm đóng) mà phía bên ấy còn có mẹ già, vợ trẻ cùng giàn hoa thiên lý… Qua câu chuyện của đồng đội kể, Yên Thao rất xúc động, đồng cảm liên tưởng cứ như câu chuyện của chính mình, thế là trong đầu anh cảm hứng xuất thần một “tứ thơ” vụt hiện: “Nhà tôi”. Bài thơ được mọi người chép tay, thuộc lòng, nhanh chóng truyền bá vào tới tận Nam Bộ kháng chiến, không chỉ với lính xuất thân nông thôn mà cả với lính thành phố cũng thấy thấp thoáng trong bài thơ những nét hợp với mình.
Nhà tôi ở cuối chân đồi ….
Tôi đứng bên này sông
Bên kia vùng giặc đóng
Làng tôi đấy, sạm đen màu tiết đọng
Tre, cau buồn rũ ướt mưa sương
Màu trăng vôi lồm lộp mấy khung tường
Nếp đình xưa người hỡi,đau gì không ?
Tôi là anh lính chiến
Rời quê hương từ dạo máu khơi dòng
Buông tay gàu vui lại thuở Bình Mông
Ghì nấc súng nhớ ơi, ngày đắc thắng
Chân chưa vẹt trên nẻo đường vạn dặm
Áo nào phai không sót chút màu xưa
Đêm hôm nay tôi trở về, lành lạnh
Sông sâu mừng lấp lánh sao lưa thưa
Tôi có người vợ trẻ
Đẹp như thơ
Tuổi chớm đôi mươi cưới buổi dâng cờ
Má trắng mịn thơm thơm mùa lúa chin
Ai ra đi mà không từng bịn rịn
Rời yêu thương nào đã mấy ai vui
Em lặng buồn nhìn với lúc chia phôi
Tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ.
Tôi còn người mẹ
Tóc đã ngả màu bông
Tuổi già non thế kỷ
Lưng gày uốn nặng kiếp long đong
Nắng mưa từ buổi tang chồng
Tơ tằm rút mãi cho lòng héo hon
ÔI, xa rồi, mẹ tôi
Lệ nhòa mi mắt
Mong con phương trời
Có từng chợt tỉnh đêm vơi
Nghe giòn tiếng súng nhớ lời chia ly :
Mẹ ơi, con mẹ tìm đi
Bao giờ hết giặc con về mẹ vui.
Đêm hôm nay tôi trở về, lành lạnh
Sông sâu mừng , lấp lánh sao lưa thưa
Ống quần nâu đã vá mụn giang hồ
Chắc tay súng tôi mơ về Nguyễn Huệ
Làng tôi kia, bên trại thù quạnh quẽ
Trông im lìm như một nấm mồ ma
Có còn không, em hỡi ! mẹ tôi già !
Những người thân yêu khóc buổi tôi xa ?
Tôi là anh lính chiến
Theo quân về giải phóng quê hương
Mái đầu xanh bụi viễn phương
Bước chân đất đạp xiêu đồn lũy địch.
Này, anh đồng chí
Người bạn pháo binh
Đã đến giờ chưa nhỉ
Mà tôi nghe như trại giặc tan tành ?
Anh rót cho khéo nhé
Kẻo lại nhầm nhà tôi !
Nhà tôi ở cuối thôn Đồi
Có giàn Thiên lý, có người tôi thương.
Bài thơ này được nhạc sĩ Anh Bằng phổ nhạc thành Bài hát Chuyện Giàn Thiên Lý vào khoảng những năm cuối thập niên 1980 đầu 1990.
Nhật Hà tổng hợp.
(dongnhavang.com)