Phi thuyền Thiên Vấn-2 được phóng lên từ Trung tâm phóng vệ tinh Tây Xương ở tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, ngày 29/05/2025. © Reuters/China daily

 

 

Ngày 29/05/2025, Trung Quốc ​đã phóng thành công phi thuyền Thiên Vấn-2 nhằm thu thập mẫu từ một tiểu hành tinh. Đây là một phần trong các dự án quy mô lớn khám phá không gian của Trung Quốc, trong đó có các chuyến thám hiểm Mặt Trăng và Sao Hỏa, cũng như phóng nhiều vệ tinh quan sát Trái Đất, một trạm vũ trụ tương tự như Trạm Không gian Quốc tế. Ngoài ra là kế hoạch thiết lập một căn cứ trên Mặt Trăng.

 

Thế nhưng, dường như chánh sách thám hiểm không gian của Bắc Kinh vẫn chưa được biết đến nhiều. Nhân dịp này, trang mạng nghiên cứu The Conversation giới thiệu bài phỏng vấn Isabelle Sourbès-Verger, chuyên gia nghiên cứu về chánh sách không gian của các cường quốc trong lĩnh vực này từ những năm 1980 để giải mã những thách thức không gian ở các cấp độ quốc gia và quốc tế.

 

RFI lược thuật các ý chánh trong bài phỏng vấn, cho thấy Trung Quốc đã sử dụng các chương trình thám hiểm không trung như một công cụ địa chánh trị và quyền lực mềm như thế nào.

 

Trước hết, chuyên gia nghiên cứu Isabelle Sourbès-Verger nhận định là trong lĩnh vực không gian, vũ trụ, Trung Quốc đã mất rất nhiều thời gian mới được công nhận là cường quốc. Ví dụ, vệ tinh đầu tiên của Trung Quốc được đưa vào quỹ đạo vào năm 1971, chậm hơn Liên-Xô và Hoa Kỳ gần 10 năm. Và phải đến năm 2003, hơn 40 năm sau chuyến bay của Yuri Gagarin, phi hành gia người Nga, thì Trung Quốc mới có một phi hành gia hoàn thành chuyến bay đầu tiên vào vũ trụ.

 

Thế nên, mục tiêu đầu tiên của Trung Quốc là phải thu hẹp khoảng cách này. Cách nay 10 năm, khẩu hiệu của chánh sách không gian của Trung Quốc vẫn là « bắt kịp », nghĩa là tiếp thu và nắm vững các kỹ năng mà các cường quốc không gian khác như Mỹ, Nga, Âu châu và Nhật Bản đã đạt được. Trong một thời gian dài, mong muốn « bắt kịp » đã được Bắc Kinh thể hiện rõ trong Sách Trắng, tài liệu chánh thức giới thiệu các hoạt động không gian, từ năm 2000 đến nay được xuất bản 5 năm 1 lần cùng với các kế hoạch 5 năm.

 

Chuyên gia Sourbès-Verger cũng không quên nhắc lại là chế độ Cộng Sản Trung Quốc bảo đảm nguồn tài trợ và các ưu tiên được xác định lâu dài. Chính tính liên tục này mang lại một lợi thế cho các chương trình không gian dài hạn, ví dụ trạm vũ trụ Thiên Cung, hoạt động trên quỹ đạo từ năm 2021, được xây dựng hơn 30 năm sau khi chương trình được quyết định và 18 năm sau chuyến bay đầu tiên của một phi hành gia Trung Quốc lên không trung.

 

Tuy nhiên, trong Sách Trắng mới nhất, xuất bản năm 2022, giọng điệu của Bắc Kinh đã thay đổi rõ rệt: Trung Quốc nhấn mạnh sẽ làm những điều chưa từng thực hiện trước đây. Khoảng cách với các cường quốc vũ trụ khác đang dần thu hẹp. Phải chăng Trung Quốc đang muốn cạnh tranh trong « cuộc đua lên không trung »?

 

 

« Giấc mộng Trung Hoa » trên không trung

Danh chánh ngôn thuận, Trung Quốc không nói cạnh tranh với Hoa Kỳ, thay vào đó, họ tập trung vào lòng tự hào dân tộc và mong muốn được công nhận là một cường quốc hàng đầu - « giấc mộng Trung Hoa » nổi tiếng của Tập Cận Bình cho năm 2049. Đối với Bắc Kinh, việc trở thành nước đầu tiên lập căn cứ trên Mặt Trăng không phải là ưu tiên hàng đầu mà là hoàn thành các sứ mệnh tự đề ra với những điều kiện của riêng mình.

 

Cơ quan vũ trụ Trung Quốc nhấn mạnh vào các khái niệm như hợp tác khoa học quốc tế và sự cởi mở, tự đặt mình như một mô hình thay thế Mỹ, không phân biệt chánh trị, dù từ cuối những năm 1990 Trung Quốc đã bị Quốc Hội Hoa Kỳ loại trừ hoàn toàn khỏi mọi hoạt động hợp tác liên quan đến công nghệ. Theo chuyên gia Isabelle Sourbès-Verger, Hoa Kỳ cần một đối thủ cạnh tranh trong không gian để lý giải với Quốc Hội về các khoản ngân sách lớn và để chứng minh sự vượt trội của mình so với thế giới, nhưng Trung Quốc không có lý do gì để phải tham gia trò chơi như vậy. Không những vậy, việc Mỹ nói đến « mối đe dọa » Trung Quốc trong không gian còn được Bắc Kinh khéo léo khai thác qua các bài viết trích dẫn báo Mỹ để ngầm đề cao Trung Quốc.

 

Việc người Mỹ đã lần đầu tiên lên Mặt Trăng từ cách nay 50 năm cũng không ngăn cản Trung Quốc ủng hộ các chương trình không gian để thử nghiệm năng lực quốc gia. Nhờ đó, Trung Quốc đã đạt được những « lần đầu tiên » đáng chú ý: ví dụ hạ cánh xuống mặt khuất của Mặt Trăng hồi năm 2019 (sứ mệnh Hằng Nga-4) và mang mẫu vật về vào năm 2024 (sứ mệnh Hằng Nga-6). Việc hạ cánh ở mặt khuất của Mặt Trăng phức tạp hơn trong việc liên lạc với Trái Đất, nhưng đó là cách Bắc Kinh chứng minh có thể thực hiện những sứ mệnh hoàn toàn mới. Việc đưa được về Trái Đất gần 2 ký-lô (kg) đất từ mặt khuất của Mặt Trăng đã thu hút nhiều sự quan tâm của các khoa học gia trên toàn thế giới, đến mức Cơ quan vũ trụ Mỹ - NASA - đã phải can thiệp với Quốc Hội để các chuyên gia nghiên cứu Mỹ có thể đăng ký xin nhận mẫu và đã được Trung Quốc cung cấp mẫu vật.

 

Tại Hoa Kỳ, New Space - « Không gian mới » - phát triển từ những năm 2000, gắn liền với sự xuất hiện của các công ty tư nhân chuyên về kỹ thuật số và ưu tiên sáng chế, như công ty SpaceX của tỷ phú Elon Musk hay Blue Origin của Jeff Bezos, đã được chánh phủ thúc đẩy, nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế, bảo đảm vị thế dẫn đầu chiến lược trong các lĩnh vực quan trọng. Chương trình khám khá không trung của Trung Quốc có sự tham gia của những công ty kiểu như SpaceX hay Blue Origin không? Chuyên gia Sourbès-Verger cho rằng Bắc Kinh cũng cần phải ủng hộ vấn đề thương mại của các chương trình không gian, cần có những tác nhân và thị trường đầu ra không chỉ do Nhà nước sở hữu, nhưng không có bất kỳ nỗ lực cụ thể nào để khuyến khích điều đó. Vì thế, bà nghĩ rằng Trung Quốc xem không gian như một công cụ bảo đảm quyền tự chủ, và các doanh nghiệp Nhà nước vẫn có trọng lượng rất lớn.

 

Theo nghiên cứu của chuyên gia Sourbès-Verger, tỷ lệ thất bại trung bình của các chương trình thám hiểm không gian từ trước tới nay là gần 50%. Thế nhưng, ngày nay, do nhiều yếu tố, các chuyến thám hiểm của Trung Quốc có tỷ lệ thành công lên đến 100%. Điểm mạnh trong phương pháp làm việc của Trung Quốc là kết hợp các kỹ năng đã đạt được, nhưng không nhất thiết là cứ phải tìm kiếm những tiến bộ đột phá về công nghệ như cách làm của Mỹ. Ví dụ kế hoạch của Trung Quốc mang mẫu vật từ sao Hỏa về dựa trên một số kinh nghiệm như đưa phi thuyền hạ cánh xuống sao Hỏa vào năm 2021; thu thập mẫu ở cả hai mặt gần và mặt khuất của Mặt Trăng.

 

Tỷ lệ thành công của các cuộc thám hiểm thực sự là bằng chứng cho thấy lĩnh vực không gian, vũ trụ của Trung Quốc đã chín muồi, đáng tin cậy và được tổ chức tốt, nhất là lại phát triển một cách hoàn toàn tự chủ.

 

Dưới thời Donald Trump, tầm ảnh hưởng của Elon Musk đã giúp thúc đẩy một số hoạt động trong lĩnh vực không gian, ngoài ra NASA cũng phải cắt giảm ngân sách đáng kể. Một câu hỏi khác: Liệu những thay đổi chánh trị ở Hoa Kỳ có thể ảnh hưởng đến chánh sách thám hiểm không gian của Trung Quốc không?

 

Chuyên gia Isabelle Sourbès-Verger nhấn mạnh, đơn giản là Trung Quốc vẫn có thể làm những gì họ đã lên kế hoạch: lên Mặt Trăng, thiết lập một căn cứ tự động ở đó, hay thu thập mẫu vật từ Sao Hỏa. Dù có thế nào thì Trung Quốc cũng sẽ tiếp tục tiến triển từng bước một. Các chương trình vẫn đang được tiến hành và sẽ không dừng lại.

 

Nếu Donald Trump quyết định rằng Mặt Trăng không còn là ưu tiên hàng đầu nữa và Sao Hỏa mới là vấn đề cấp bách nhất, thì có nguy cơ trạm nghiên cứu khoa học quốc tế Trung - Nga sẽ là trạm duy nhất hoạt động trên Mặt Trăng. Điều này chắc chắn làm xấu đi hình ảnh cho Hoa Kỳ, sau tất cả những lời tuyên bố của Washington về việc cần phải ngăn chặn Trung Quốc xâm chiếm không gian.

 

Về tài chánh, ngân sách dành cho các chương trình thám hiểm không gian của Hoa Kỳ (70-80 tỷ đô-la) dẫu nhỏ so với tổng ngân sách quốc phòng nhưng từ lâu nay đã và vẫn là rất cao so với ngân sách của các quốc gia khác, kể cả Trung Quốc (khoảng 20 tỷ đô-la). Nhận thức được sự chênh tài chánh này, Trung Quốc đã lựa chọn những cách thức riêng của họ.

 

 

 

(Theo RFI)