(Ảnh minh họa) - Nông dân trên cánh đồng lúa ở Long An, Đồng bằng sông Cửu Long, ngày 23/01/2024. AP - Jae C. Hong
Đồng bằng sông Cửu Long (châu thổ sông Mekong), nằm ở vùng cực nam Việt Nam, cũng là vùng sản xuất nông nghiệp then chốt của đất nước, nhất là lúa gạo, trái cây và thủy sản. Thế nhưng, trong những năm gần đây, đồng bằng sông Cửu Long đang phải đối mặt với tình trạng xâm nhập mặn ngày càng phức tạp, không chỉ tác động đến đời sống con người và sinh thái, mà còn ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, khiến nhà nông phải tìm cách chuyển đổi để thích nghi với tình hình.
Nhưng đâu là những nguyên nhân và thực trạng mặn ở đồng bằng sông Cửu Long ? Để hiểu thêm tình hình, RFI có cuộc trao đổi với tiến sĩ Dương Văn Ni, Khoa Môi trường và Quản lý tài nguyên thiên nhiên, đại học Cần Thơ và Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long.
RFI tiếng Việt : Đâu là nguyên nhân gây ra mặn đối với cây trồng ở đồng bằng sông Cửu Long ?
Tiến sĩ Dương Văn Ni : Về mặn đối với cây trồng ở đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là đối với sản xuất lúa, người ta chia làm hai loại mặn. Thứ nhất là mặn do nước biển tràn vào. Cái mặn này thường xuất hiện trong mùa khô, khi mà nước ngọt từ sông Cửu Long hoặc lượng nước mưa không đủ để đẩy nước mặn, thì mặn xâm nhập từ biển vào.
Loại mặn thứ hai là mặn từ trong đất : chúng ta hình dung là phù sa của sông Mekong đi ra ngoài biển biển thì biến dần thành phù sa mặn. Khi phù sa này quay bồi tụ thì hình thành đất mặn. Đó là đất đó đã có sẵn muối trong đó rồi. Nói nôm na, chúng ta phân biệt làm hai loại mặn, mặn do nước biển và mặn có sẵn từ trong đất.
RFI tiếng Việt : Người xưa đã thích ứng với chuyện mặn này như thế nào ?
Tiến sĩ Dương Văn Ni : Đối với người xưa, khi đến định cư ở đồng bằng sông Cửu Long này, vùng Duyên Hải sát với phía biển, người ta chia chuyện xử dụng nước làm bốn loại. Thứ nhất là loại nước để ăn uống, đa phần người ta dựa vào nước mưa. Dễ thấy nhất khi xuống những vùng như thế này là thấy là người dân trữ nước mưa trong lu để dọc theo nhà. Mình có thể đếm số lu là có thể đoán biết là trong nhà đó có mấy người.
Cái nước thứ hai là nước sinh hoạt, ví dụ để người ta tắm giặt … Phổ biến nhất là khi xây nhà, người ta đào cái ao kế bên nhà để trữ nước ngọt, thường gọi là ao rửa ăn.
Và trong một vài trường hợp thì người ta đào những cái ao này xa trong ruộng, gọi là những cái đìa, hoặc là người ta đào những cái ao lớn để cho cả cộng đồng xử dụng, như những cái ao chùa hoặc là những cái ao ở những nơi tập thể. Hiện nay một số nơi còn biệt danh đó, ví như ao Bà Hom ở Trà Vinh. Đó là những cái ao rất lớn để giữ nước ngọt cho cả cộng đồng xài.
Loại nước thứ ba gọi là nước sản xuất. Người ta dựa vào chất lượng nước và quyết định loại hình sản xuất. Ví dụ như nơi nào mà nước nó quá mặn thì người ta xử dụng để sản xuất muối. Còn nơi nào mà nước mặn trung bình hoặc là mặn vừa thì người ta để nuôi tôm, nuôi cua. Còn nơi nào mà nước không mặn thì người ta mới trồng lúa hoặc người ta kết hợp với nuôi cá đồng.
Cái cuối cùng là nước sinh thái, người ta giữ để cho cây cối xanh tươi, để cho cá tép có chỗ sống, và để cho ghe xuồng có thể đi lại được trên kinh rạch, làm cho không khí mát mẻ.
Tôi muốn lưu ý là người xưa cũng đã từng ngăn mặn. Nhưng mà người ta chỉ ngăn mặn từ ở dưới sông tràn lên trên ruộng thôi, chứ không ai ngăn mặn trên những con sông hay con rạch, bởi vì ông bà xưa đã từng dặn là có 2 điều rất là tội lỗi, không nên làm : đó là ngăn sông và cấm chợ.
RFI tiếng Việt : Tình hình mặn năm 2025 ra sao và theo ông xu thế tương lai thế nào ?
Tiến sĩ Dương Văn Ni : Nói về tình hình mặn hiện nay đó thì cái mặn xâm nhập từ biển vào, phần lớn được kiểm soát bởi các công trình như là đê ngăn mặn hoặc là cống đập ngăn mặn. Nhưng mà thực sự thì cái mặn mà không kiểm soát được là cái mặn từ trong đất đi ra, bởi vì do điều kiện địa chất hình thành vùng đất của mình, tầng đất ở bên dưới đã nhiễm mặn rồi. Thành thử khi mà thiếu cái nguồn nước ngọt bổ sung để rửa mặn hay là ém mặn từ bên trên thì cái mặn từ các cái tầng dưới sẽ mau dẫn lên và làm cho mặn trên mặt đất.
Xu hướng mặn từ trong đất xì ra càng ngày càng tăng, bởi vì biến đổi khí hậu làm cho lượng nước ngọt càng ngày càng giảm. Về điều này, nhìn chung là theo xu hướng hiện nay cũng như là trong tương lai, diện tích của đất bị ảnh hưởng bởi mặn chỉ có tăng thôi chứ không có giảm.
RFI tiếng Việt : Tình hình cụ thể năm nay so với, ví dụ như năm 2023 hay 2024, cái cái mặn này có tăng lên nhiều không ?
Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật ra thì cái mặn đã có sẵn trong nước và trong đất. Nó là tự nhiên. Vấn đề khi là đánh giá là năm nay mặn nhiều hơn năm rồi hay là mặn ít hơn năm rồi thì chủ yếu là người ta dựa vào diện tích canh tác bị thiệt hại. Mà ở đây cụ thể là diện tích canh tác lúa. Cái đỉnh mà gọi là bị xâm nhập mặn trầm trọng nhất là năm 2015 và 2016, mặn xâm nhập rất là sâu vào trong đất liền và ảnh hưởng rất nhiều đến diện tích trồng lúa.
Có 2 nguyên nhân. Nguyên nhân thứ nhất là mặn xâm nhập sớm, người ta trở tay không kịp. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là người ta đã lấn, người ta đã đưa cây trồng vật nuôi không phù hợp với nước mặn, mở rộng diện tích ra gần biển quá nhiều trong những năm trước. Và như vậy khi mặn xâm nhập thì sẽ gây ra diện tích thiệt hại càng lớn.
Và theo hướng đó thì những năm sau 2016 đến nay, cũng có những năm như 2020, 2022 mặn cũng khá nhiều nhưng mà thiệt hại, chủ yếu là thiệt hại trên diện tích canh tác lúa, không tăng bởi vì người dân đã có kinh nghiệm. Có nghĩa là những diện tích này không còn phù hợp để cho trồng lúa nữa và người ta giảm diện tích lúa cũng như là giảm mùa và vụ xuống. Thay vì hồi xưa trồng 2-3 vụ thì bây giờ người ta chỉ trồng một vụ thôi, do đó né được cái mặn. Hay nói nôm na là người ta có kinh nghiệm để tránh mặn.
RFI tiếng Việt : Đâu là những nguyên nhân chính làm cho mặn có thể trở nên trầm trọng hơn? Liệu biến đổi khí hậu có góp phần vào nạn này không ?
Tiến sĩ Dương Văn Ni : Nói về nguyên nhân làm cho mặn có thể trầm trọng hơn thì chúng ta có thể liệt kê ra 4 nhóm nguyên nhân chính. Thế nhưng, nguyên nhân đầu tiên vẫn là kiểu xử dụng đất của nông dân, có nghĩa là nông dân đã chọn cây trồng vật nuôi đó có tính tới chuyện cây trồng vật nuôi đó có chịu mặn được hay không ? Và quy trình quản lý cây trồng, vật nuôi đó có giúp ngăn chặn được tác hại của mặn hay không?
Cái thứ hai là chuyện vận hành hệ thống công trình như đê điều, cống đập. Hiện nay cách vận hành đó còn manh mún và chưa đồng bộ, thành thử thí dụ một nơi này thì đóng cống để mà ngăn nước mặn, nhưng mà nơi kia thì lại mở cống, thành thử nước mặn sẽ xâm nhập phía sau, phía trước. Đó là vấn đề thứ hai. Vấn đề thứ ba là nguồn nước ngọt từ sông Mekong. Chúng ta biết là nguồn nước ngọt ở thượng nguồn bây giờ đang bị khai phá rất nhiều cho sản xuất, nên đôi khi trong mùa nắng thì mình thiếu nguồn nước ngọt để đẩy nước mặn xâm nhập vào đồng bằng đi ra ngoài xa.
Và cuối cùng là biến đổi khí hậu, ở đây cụ thể là sự phân bố thất thường lượng nước mưa. Nếu lượng mưa phân bố thất thường, thì tại những vùng chủ yếu rửa mặn từ nước mưa, thì người ta không có đủ nước để rửa cho đất, những nơi đó là ảnh hưởng mặn càng ngày càng tăng nghiêm trọng hơn.
RFI tiếng Việt : Mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu có phải là một nguyên nhân đẩy nước mặn vào sâu trong đồng bằng sông Cửu Long hơn ?
Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật ra nếu nói về chuyện mực nước biển dâng, thì tác động không nhiều bằng mà chuyện lún sụt mặt đất ở trong đất liền, bởi vì vận tốc sụt lún mặt đất ở trong đất liền hiện nay trung cũng khoảng chừng 1-2cm/năm, đặc biệt là có những vùng nhiều hơn, trong khi mực nước biển dâng chỉ có không phẩy mấy cm trong vòng 2-3 năm. Nên thực ra mực nước biển dâng có góp phần gây xâm nhập mặn, nhưng đó là một tiến trình lâu dài, chứ không xuất hiện từng năm, mà vận tốc tăng cũng rất chậm, trong khi sụt lún mặt đất của chúng ta trầm trọng hơn vì tốc độ nhanh hơn, nên làm nước mặn xâm nhập vô đất liền nhiều hơn.
RFI tiếng Việt : Vậy sụt lún mặt đất có phải phần nào cũng là do việc người dân hút mạch nước ngầm lên, ví dụ để xử dụng phục vụ tưới tiêu sản xuất ?
Tiến sĩ Dương Văn Ni : Sụt lún mặt đất thì chúng ta phải xét trên trên nhiều góc độ. Thứ nhất là chúng ta phải hiểu là đồng bằng của chúng ta hình thành được là do quá trình bồi lấn phù sa nhiều hơn là quá trình xói lở phù sa, nên mới tạo ra được mặt đất. Nếu quá trình bồi lấn phù sa đó nhỏ hơn quá trình sạt lở phù sa thì mặt đất của chúng ta tự nó cũng đã thấp xuống mỗi năm.
Tôi cho rằng chuyện thiếu hụt phù sa bù đất cho những vùng đất hiện nay là yếu tố chính, bởi vì nhiều lý do liên quan tới kiểu xử dụng đất của người dân. Ví dụ như hồi trước có nhiều vùng qua mùa nước lũ người ta còn mở đê để lấy nước, phù sa còn bồi lấn trên đồng. Còn hiện nay, người ta quản lý nước chặt chẽ để canh tác suốt năm, phù sa không có cơ hội đi vào đồng ruộng, nên đồng ruộng không được bồi lấn tự nhiên lên, do đó mặt đất càng ngày càng sụt xuống.
Cái thứ hai là chuyện trưởng thành của loại đất. Đất ở đồng bằng của chúng ta nó thuộc về đất non trẻ và đối với một đất non trẻ này thì tự nó khi mà nó săn chắc lại thì nó co ngót lại và cũng tạo ra một độ sụt lún tự nhiên.
Và nguyên nhân thứ ba thì chắc chắn là do bây giờ người ta lấy quá nhiều nước ngầm. Ngày xưa người ta chỉ lấy để làm nước sinh hoạt và ăn uống trong giai đoạn thiếu nước thôi, còn ngày nay người ta lấy nước ngầm để phục vụ cho sản xuất nữa, thành thử lượng nước ngầm khai thác mỗi nơi phục vụ cho sản xuất rất lớn, gấp mấy chục lần lượng nước cần thiết để sinh hoạt. Đây là cũng là nguyên nhân làm cho mặt đất sụt lún rất nhanh.
RFI tiếng Việt : Trường hợp mặn của đồng bằng sông Cửu Long thì có phải là cá biệt trên thế giới hay không ? Hay cũng có một số khu vực trên thế giới cũng có tình trạng giống như đồng bằng sông Cửu Long ? Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với những khu vực đó không ?
Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật sự mà nói tất cả đồng bằng trên thế giới này đều có những thách thức tương tự như đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng mà đồng bằng sông Cửu Long thì được xếp một trong 3 đồng bằng chịu tổn thương nhiều nhất. Thành thử những kinh nghiệm, bài học mà chúng ta có được hoàn toàn có thể chia sẻ cho những đồng bằng khác, bởi vì mức độ nghiêm trọng của họ không nhiều như mình.
Đồng bằng sông Cửu Long bị áp lực từ tự nhiên cho đến chuyện phát triển kinh tế xã hội trong khu vực. Lý do thứ nhất là sông Cửu Long chảy qua 6 nước : qua Trung Quốc, Miến Điện, rồi Lào, Thái Lan, Campuchia rồi cuối cùng mới đi đến Việt Nam. Đồng bằng là phần mà sự thay đổi phụ thuộc hoàn toàn vào lưu vực của con sông. Tất cả những cái gì xảy ra trên lưu vực của con sông đó thì đều ảnh hưởng đến đồng bằng này.
Chuyện các quốc gia này ngồi lại để thương lượng về các chuyện, ví dụ xử dụng nguồn nước thế nào cho hợp lý, đều rất khó khăn. Nó không có đơn giản như là đồng bằng sông Mississippi của Hoa Kỳ, chảy qua nhiều tiểu bang, nhưng đều nằm trong một quốc gia, thành thử ra họ ngồi lại với nhau tương đối dễ dàng hơn.
Nhưng riêng về chuyện xâm nhập mặn thì thật sự mà nói là có nhiều quốc gia hiện nay cái mặn không đơn thuần chỉ là mặn trong nước biển hay là trong đất thôi, mà đôi khi đó còn là cái mặn do những khu công nghiệp hoặc là nơi sản xuất, đặc biệt là những chỗ luyện kim … Cái mặn này tạo ra một loại muối khác, không phải là muối mình ăn được như muối biển tự nhiên, mà đây là cái mặn từ nguồn nước thải công nghiệp sản xuất. Cái đó nó tác động, làm đất bị nhiễm mặn và cái mặn đó mới là nguy hiểm. Khử cái mặn đó mới khó.
RFI tiếng Việt chân thành cảm ơn tiến sĩ Dương Văn Ni đã tham gia chương trình !
(Theo RFI)