Trong sự giao tiếp, cổ nhân Việt thường căn dặn con cháu phải tránh quen biết với những người có thói quen xấu, đã từng sai phạm nhiều điều hoặc lừa thầy, phản bạn, dối gian, lường gạt. Các cụ đặt ra câu tục ngữ “Ngựa theo đường cũ” và kể kèm theo một câu chuyện về ngựa làm ẩn dụ.

 

Các cụ kể rằng:

Ngày xưa, có một gia đình thầy lang sống ở ven rừng nọ, ông có một con ngựa cao lớn, sắc lông màu nâu bóng mượt. Thầy lang dùng ngựa để đi chữa bệnh cho dân trong bản.

 

Một hôm, ngựa sút dây sổng chuồng và đi biệt tăm. Người lối xóm đến thăm, tỏ lòng lo lắng cho thầy lang mất ngựa, e sẽ khốn khổ vì phải lội bộ, Thế nhưng, thầy lang rất trầm tĩnh. Có người thắc mắc cất tiếng hỏi, thầy lang ôn tồn đáp: “Tôi không có gì buồn bã, lo lắng, vì rồi ngựa cũng sẽ theo đường cũ mà trở về nhà”. Mọi người nghe vậy trố mắt ngạc nhiên, không hiểu gì cả.

Ba hôm sau, vào lúc khói lam chiều tỏa bay trên các nóc nhà trong bản, ngựa quý của thầy lang trở về, chẳng những một mình mà còn có theo một ngựa khác. Dân trong bản kéo lại, đứng chật kín sân nhà thầy để vui mừng! Thầy lang không cắt nghĩa nổi tại sao nhưng kinh nghiệm của thầy là vậy “ngựa sẽ theo đường cũ trở về”.

 

Lại có truyện tích khác do mấy ông đồ Nho uyên thâm chữ nghĩa trích từ lịch sử văn học Trung Hoa. Thầy đồ kể rành rẽ một câu chuyện ghi trong sách Tàu đại loại cũng giải thích từ đâu mà nảy sanh câu tục ngữ “Ngựa quen đường cũ”. Tại nước Tề (nay thuộc tỉnh An Huy, Trung Quốc) có người tên Quản Trọng (725 TCN – 645 TCN – thuộc thời Xuân Thu bên Tàu) bề ngoài sinh sống bằng nghề nuôi ngựa nhưng thực chất thì ưa bàn luận chính sự. Ông ta như thể nói chuyện được với ngựa, hiểu rõ tính tình của từng con. Quản Trọng có một chú ngựa đực, ức nở, lông mượt, dáng phi nước kiệu như gió. Ngày ngày, Quản Trọng thường cưỡi ngựa đi thuyết giáo thiên hạ. Lần ấy, Quản Trọng tìm đến nhà Thấp Bằng bàn chuyện đánh nước Cô Trúc. Đến nhà Thấp Bằng, Quản Trọng thả ngựa ra vườn cho nó gặm cỏ. Trong khi hai chủ nhân bàn chuyện thì con ngựa đực nghe tiếng hí cách đấy không xa của con ngựa cái của Thấp Bằng. Ngựa cái vừa cọ mình vào dóng tàu ngựa, vừa hí. Con ngựa của Quản Trọng cũng hí ra điều chào lại. Con ngựa cái kia gại gại đôi chân sau xuống cỏ để tỏ tình. Thế là chúng làm quen với nhau và trở nên thân thiết.

 

Mấy hôm sau, khi trở lại nhà rồi con ngựa của Quản Trọng nhớ bạn, nhân lúc được thả thong dong ngoài vườn, nó mới vượt đường xa, tranh thủ đến thăm bạn ngựa cái của nó. Đường cát trắng phau, không có dấu chân đi, mặc dù con ngựa mới chỉ một lần theo chủ, nhưng nó như đã quen thuộc lắm, cứ phăng phăng một lèo tìm đến nơi.

 

Gặp bạn, ngựa đực, ngựa cái quyến luyến nhau nhưng rồi ngựa đực cũng phải trở về với chủ. Khi nó về đến nơi, biết vậy, Quản Trọng không trách nó mà còn khen:

  • Mày quả thực có tình có nghĩa.

 

Sau này Quản Trọng cùng Thấp Bằng dựng cờ theo Tề Hoàn Công đi đánh nước Cô Trúc. Trận mạc xông pha, hết Nam lại Bắc. Khi đi là mùa Xuân, khi thắng trận trở về đã chuyển sang mùa Đông, tuyết rơi xoá hết đường cũ, khiến Quản Trọng và Thấp Bằng không còn nhớ đường về, lang thang nơi rừng sâu tuyết thẳm.

 

Bỗng Quản Trọng nhớ lại lần ấy, con ngựa của mình tìm đường đến con ngựa cái của Thấp Bằng mới cho rằng chỉ có con ngựa mới tìm được đường, bèn nói với nó:

  • Trí nhớ của mày tốt, mày hãy đưa chúng tao về chốn cũ.

 

Con ngựa như hiểu ý, nó hí lên vài tiếng. Quản Trọng cho thả ngựa ra, con ngựa ung dung thong thả lên đường. Đoàn quân theo sau con ngựa đi vòng qua các khe núi sâu, rừng thẳm, tuyết dầy tìm được đường về nước. Đoàn người thoát khỏi cảnh lưu lạc, mới nói với Quản Trọng:

  • Quả thật, nếu không có ngựa của ngài quen đường cũ, thì chúng ta đâu được như hôm nay.

Quản Trọng từng nuôi qua nhiều ngựa nên lâu ngày biết được loài ngựa có trí nhớ tốt, đi qua một lần là nhớ và lại nhớ dai!

 

Các nghiên cứu về loài ngựa đưa ra kết quả rằng: Ngựa có khả năng ghi nhớ tuyệt vời, cho phép chúng nhớ về con người, địa điểm và trải nghiệm trong thời gian dài, thường sánh ngang với các loài động vật thông minh khác.

 

Nghiên cứu chỉ ra rằng ngựa có thể lưu giữ ký ức trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Ngựa hình thành bản đồ tư duy về những địa điểm quen thuộc. Một khi đã đến một nơi nào đó - chẳng hạn như đường mòn, đấu trường hoặc chuồng ngựa - chúng thường có thể quay lại mà không cần hướng dẫn. Trí nhớ không gian này bắt nguồn từ bản năng sinh tồn của chúng, vốn được phát triển để giúp ngựa hoang tìm thấy nước và tránh thú săn mồi trên những vùng đất rộng lớn.

 

Khi dân gian đặt ra câu “Ngựa theo đường cũ” nhằm chỉ về người không trút bỏ thói quen cũ mà cứ “chứng nào tật ấy”, khuyết điểm sai trái được lập đi lập lại chẳng “chịu” sửa đổi.

 

Câu tục ngữ này cảnh báo người đời khi giao tiếp phải cẩn trọng đối với những ai đã từng có sai phạm bởi vì rất có thể họ sẽ tái diễn sai phạm trong tương lai và người giao tiếp với họ sẽ chịu phần thua thiệt! Nói một cách khác: Phải tránh xa hoặc không nên tin tưởng người đã một lần lầm lỗi. Đồng điệu với câu “Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt”!

 

“Ngựa quen đường cũ” nếu áp dụng nghiêm khắc có thể trở nên một thành ngữ khắt khe, không cho người lầm lỗi có cơ hội ăn năn; người áp dụng không có tấm lòng quảng đại tha thứ.

 

Lời trong Kinh Thánh có chép rằng: “Và nhược bằng dân sự ta, là dân gọi bằng danh ta, hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt ta, và trở lại, bỏ con đường tà, thì ta ở trên trời sẽ nghe, tha thứ tội chúng nó, và cứu xứ họ khỏi tai vạ.” (II Sử Ký 7:14)

 

Để dung hòa, người làm sai hãy nghe lời khuyên bảo để sửa đổi, triệt bỏ thói hư, tật xấu; gây dựng lại chữ “tín”; người giao tiếp nên khoan dung, rộng lòng tha thứ cho ai đó biết ăn năn, biết nhận ra sai lầm mà quyết tâm không lập lại sai phạm. Được như vậy, tốt biết bao: Ngựa có thể theo đường cũ, nhưng người khôn ngoan thì chẳng nên “chứng nào tật nấy”! ª