Khi đến lúc nghỉ hưu, đa số người Việt chỉ mong ngày tháng của tuổi già được an nhàn, vui vẻ với con cháu. Nhưng cũng có người lại thích đi du lịch bù lại những tháng ngày bận bịu với công việc chẳng thể “đi cho biết đó biết đây”. Tất cả đều nghĩ đúng và làm đúng miễn sao trong mỗi cá nhân có niềm hạnh phúc, và tận hưởng lộc Trời khi “bóng ngả về chiều” hay đúng hơn là ở tuổi xế chiều.
Thực ra một điều quan trọng mà ít ai nghĩ đến đó là “mình còn có thể sống được bao năm nữa”? Mặc dầu không một ai biết đích xác tuổi thọ của mình vì “sống, chết là do Trời định” - loài người muốn tăng hay muốn giảm cũng chẳng được. Lời trong Kinh Thánh chép rằng “Tuổi tác của chúng tôi đến được bảy mươi, còn nếu mạnh khỏe thì đến tám mươi; song sự kiêu căng của nó bất quá là lao khổ và buồn thảm, vì đời sống chóng qua, rồi chúng tôi bay mất đi.” (Thi Thiên 90:10).
Tuổi thọ là một thước đo thống kê về tuổi thọ trung bình của một dân số. Nó được tính bằng cách lấy độ tuổi trung bình khi qua đời của một nhóm người sinh cùng năm trừ đi số năm đã trôi qua kể từ khi họ sinh ra. Ví dụ: nếu một nhóm người sinh năm 2023 có tuổi thọ trung bình là 75 tuổi, thì một nửa trong số họ dự kiến sẽ chết trước khi đến tuổi 75 và một nửa dự kiến sẽ sống lâu hơn độ tuổi đó.
Chúng ta đang sống ở Úc, tất nhiên chúng ta tìm hiểu về tuổi thọ trung bình của người sinh sống tại Úc.
Cục Thống kê Úc (ABS) cho biết, tuổi thọ trung bình của người Úc vào năm 2025 là 84.18, tăng 0.15% so với năm 2024. Tuổi thọ trung bình của người Úc vào năm 2024 là 84.06, tăng 1.22% so với năm 2023. Tuổi thọ trung bình của người Úc vào năm 2023 là 83.05, giảm 0.18% so với năm 2022. Tuổi thọ trung bình của người Úc vào năm 2022 là 83.20, giảm 0.12% so với năm 2021. Năm 2021 và 2022 Úc rơi vào thời kỳ đại dịch Covid-19.
Tuổi thọ trung bình là thước đo được sử dụng nhiều nhất để mô tả sức khỏe dân số và phản ảnh mức độ tử vong chung của một dân số. Tuổi thọ trung bình đo lường thời gian trung bình mà một người được kỳ vọng sẽ sống dựa trên tỷ lệ tử vong hiện tại theo độ tuổi và giới tính. Khi tóm tắt các mô hình tử vong, tuổi thọ trung bình thường được biểu thị bằng số năm sống dự kiến của một người kể từ khi sinh ra.
Tuổi thọ khi sinh cho biết số năm một trẻ sơ sinh có thể sống nếu mô hình tử vong phổ biến tại thời điểm trẻ được sinh ra vẫn giữ nguyên trong suốt cuộc đời.
Việc tính toán tuổi thọ trung bình có thể giúp đưa ra quyết định sáng suốt về kế hoạch nghỉ hưu, chăm sóc sức khỏe và lựa chọn lối sống. Mặc dù những tính toán này cung cấp ước tính dựa trên mức trung bình và xác suất, chúng có thể đóng vai trò là hướng dẫn hữu ích cho việc lập kế hoạch tương lai của mỗi người lớn tuổi.
Những yếu tố nào có thể ảnh hưởng đến tuổi thọ?
Có khá nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến tuổi thọ của một người, nhưng tuổi tác và giới tính hiện tại là hai yếu tố quan trọng nhất.
Khi tính toán các yếu tố như tỷ lệ bảo hiểm và khoản thanh toán niên kim, các công ty và cơ quan quản lý thường sử dụng các phép tính tuổi thọ theo phương pháp bảo hiểm. Hàng năm, Cục An sinh Xã hội cung cấp một bảng chi tiết về tuổi thọ theo phương pháp bảo hiểm. Những phép tính này không chỉ cung cấp cho bạn tuổi thọ ước tính dựa trên giới tính và độ tuổi hiện tại mà còn cả khả năng tử vong trong vòng một năm. Tuy nhiên, những bảng tính này không dễ đọc và diễn giải, đó là lý do tại sao việc sử dụng máy tính tuổi thọ lại dễ dàng hơn nhiều.
Điều quan trọng cần nhớ là ước tính tuổi thọ dựa trên xác suất. Các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến tuổi thọ bao gồm:
- Chế độ ăn uống
- Lối sống và mức độ hoạt động
- Thói quen ngủ
- Thói quen hút thuốc
- Thói quen uống rượu
- Tiền sử sức khỏe gia đình
- Tình trạng kinh tế xã hội
Điều này có nghĩa là tuổi thọ không bao giờ là một khoa học chính xác, và chúng ta không nên để kết quả tính toán làm mình lo lắng. Thay vào đó, hãy sử dụng kết quả để lập kế hoạch cho cuộc sống và nghỉ hưu của mình một cách phù hợp.
Tuổi thọ trung bình đã tăng đều đặn trong vài thế kỷ qua. Năm 1800, tuổi thọ trung bình toàn cầu chỉ là 35 tuổi. Đến năm 2019, con số này đã đạt 73 tuổi. Sự gia tăng này là do một số yếu tố, bao gồm những cải thiện về chăm sóc sức khỏe, vệ sinh và dinh dưỡng.
Tuổi thọ trung bình trên toàn thế giới vẫn còn rất khác biệt. Năm 2019, tuổi thọ trung bình cao nhất là ở Nhật Bản, với 84.2 tuổi. Tuổi thọ trung bình thấp nhất là ở Sierra Leone, với 54.1 tuổi.
Tuổi thọ trung bình là một thước đo hữu ích về sức khỏe của một dân số. Nó có thể được sử dụng để theo dõi sự tiến triển theo thời gian và so sánh các dân số khác nhau. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là tuổi thọ trung bình chỉ là một giá trị trung bình. Sẽ luôn có những người sống lâu hơn và những người chết sớm hơn.
Dựa trên tuổi thọ trung bình của dân số Úc, hai biểu đồ về tuổi thọ được đưa ra dưới đây. Đối với những người độc thân, chúng tôi hiển thị một đường thẳng duy nhất minh họa xác suất sống sót của một người trung bình ở độ tuổi và giới tính của bạn trong một năm nhất định.
Đối với các cặp đôi, chúng tôi hiển thị bốn đường. Mỗi đường thể hiện xác suất sống sót của một cặp đôi trung bình cùng độ tuổi với bạn trong các hoàn cảnh khác nhau.
Tại Úc, một nam giới sinh trong giai đoạn 2021– 2023 có thể sống đến 81.1 tuổi và một nữ giới 85.1 so sánh với một nam giới sinh trong giai đoạn 1891– 1900 là 51.1 tuổi và một nữ giới sinh trong giai đoạn 1891–1900 là 54.8 tuổi.
Tuổi thọ thay đổi theo từng giai đoạn cuộc đời của một người vì khi họ trải qua các giai đoạn từ khi sinh ra, thời thơ ấu và tuổi vị thành niên, cơ hội sống đến tuổi già của họ sẽ tăng lên. Tuổi thọ ở các độ tuổi khác nhau có thể được biểu thị bằng số năm mà một người có thể sống từ độ tuổi đó.
Nam giới 65 tuổi trong giai đoạn 2021–2023 có thể sống thêm 20.1 (85.1 – 65.0) năm nữa (tuổi thọ dự kiến là 85.1 tuổi), và phụ nữ 65 tuổi trong giai đoạn 2021–2023 có thể sống thêm 22.7 năm nữa (tuổi thọ dự kiến là 87.7 tuổi) (Bảng 9.1).
Tuổi thọ trung bình của dân Hong Kong cao nhất (85.6), kế đến là Nhật (85.3), thứ ba là dân Ma cao (Trung Quốc, 84.9), dân Ý có tuổi thọ trung bình vào hành thứ sáu và dân Úc vào hàng thứ 8. trong khi Việt Nam đứng hàng thứ 79 (76 tuổi) sau Mỹ (hàng thứ 46, 79.4) và Trung Quốc (hàng thứ 63, 77.8) trên bảng xếp hạng toàn cầu vào năm 2025.
Hong Kong 85.55
Japan 85.27
Macao 84.94
Switzerland 84.50
Singapore 84.31
Italy 84.26
Spain 84.25
Australia 84.18
Vietnam 76.04
Bài viết này chỉ có tính cách tham khảo thông tin.
Người Sydney (viết choDV News)