Nhiều người tin rằng Tạo hóa đã dựng nên vũ trụ và muôn vật - trong đó: trên là trời, dưới là đất, ở giữa là người. Ngay cả việc tin vào Trời thì Đức Chúa Trời cũng có ba ngôi: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh. Với đạo Phật, cũng có Phật, Pháp và Tăng; thân thể con người thì đầu, mình và tay chân; cây cối thì rễ, thân cây và cành lá… Thậm chí có kiềng ba chân, bếp lò ba mốc và bếp xưa có ba ông đầu rau. Dường như chuyện gì ở đời, tối thiểu cũng phải có ba mới trọn vẹn - chẳng hạn lửa, nước và gió; cha, mẹ và con mới đúng nghĩa một gia đình; còn chỉ có chồng và vợ với nhau, ấy chỉ là một căp, một đôi!

 

Từ đó, ngữ vựng trong tiếng Việt không ra ngoài khuôn khổ bộ ba.

 

Nói về thời gian, vào buổi sáng sớm, khi mặt trời lố dạng, người Việt gọi là bình minh, chừng mặt trời “đứng trên đỉnh đầu”, ấy là giữa trưa hay chánh ngọ, và khi mặt trời sắp tắt nắng, là lúc hoàng hôn gọi theo cách văn vẻ; còn bình dị hơn, thì ban mai, ban trưa ban chiều – đôi khi chữ “ban” được dùng thay bằng chữ “buổi”. Nếu ai cắc cớ miêu tả “tờ mờ sáng”, thì có ngay “nắng soi đỉnh đầu” “tối nhá nhem”! Ngày thì có ngày qua, ngày nay và ngày mai hoặc quá khứ, hiện tại và tương lai. Nói tới vật gì đã trải qua thời gian quá lâu thì có cũ rích, cũ mèm cũ kỹ hoặc lỗi thời, lạc hậu, cổ hủ. Và đôi khi, xưa như củ tỏi (hay ), xưa như trái đất, xưa như truyện cổ tích. Ám chỉ lâu đời (khó tin) thì có: từ thời tám Hoánh (có nơi nói tám hoáy), thời Bành Tổ, thời ăn lông ở lỗ.

 

Về không gian, một khoảng cách xa thì tít mù khơi (trên biển), tận chân trời (đồng bằng), và bạt ngàn (rừng); về độ gần có gần xịt, sát nách, kề bên.

 

To, lớn và bự đã là bộ ba nhưng còn thêm nữa, nào là to kếch xù, to tổ bố to đùng; còn lớn thì lớn kinh khủng, lớn thấy ớn, lớn chà bá; bự dễ sợ, bự quá trời bự tổ chảng.

 

Ồn ào và vắng vẻ cũng có những cụm từ bộ ba, chẳng hạn: ồn ào như ong vỡ tổ, ồn như vỡ chợ, ồn ào như nhạc Rock; vắng thì có vắng tanh, vắng teo, vắng hoe… chỉ về vật lý; nếu nói về tâm hồn thì có trống vắng, vắng lặng xa vắng.

 

Cái đẹp, cái xấu cũng có: đẹp như tiên, đẹp mê hồn, đẹp kinh khủng; xấu hoắc, xấu như quỷ, xấu như ma. Từ cách khen đẹp, thường lấn qua lãnh vực: mê như điên, mê như điếu đổ, mê tít mắt.

 

Nói tới chuyện ăn: theo nghĩa đen (đưa thức ăn vào miệng) có ăn vã, ăn chơi, ăn vặt; còn bóng gió thì ăn vụng (kiểu ông ăn chả, bà ăn nem), ăn lén (không thích cơm nhà, lén vợ ra ngoài ăn phở), ăn trộm; tệ hơn còn có ăn bớt, ăn xén ăn quỵt. Ăn là lẽ sống nên ăn có nhiều hình thức được mô tả qua nhiều cụm từ, nhiều ý nghĩa chẳng hạn ăn hối lộ, ăn chặn, ăn gian.

Người Việt có câu “muốn ăn thì lăn vào bếp” nghĩa là “tay làm hàm  nhai, tay quai miệng trễ” nên nói đến “ăn”, tất nhiên phải đề cập tới “làm”. Làm cũng có khá nhiều cụm từ bộ ba. Trước hết: làm lụng, làm giàu, làm khách; hoặc lộ ra bề ngoài của con người: làm đẹp, làm dáng, làm điệu; hay chỉ tánh nết: làm phách, làm càn, làm tàng…

 

Hết ăn thì làm, hễ làm thì than. Ngữ vựng Việt có “than thở” (kêu khổ),

“than vãn” (phân trần), “than trách” (oán hận). Trong Truyện Kiều của Thi hào Nguyễn Du có câu: Khóc than kể hết niềm tây:

Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa?

(câu 2775 & 2776)

 

Một khi mở miệng than, nhiều người lại thường khóc cặp theo: khóc sụt sùi, khóc bù lu bù loa, khóc nức nở…; thậm chí còn có: khóc thuê (một nghề hái ra tiền), khóc vòi vĩnh (trẻ giẫy đành đạch khóc giữa chỗ đông người để đòi mẹ mua thứ này, thứ nọ), và khóc rống.

 

Trái nghĩa của “khóc” có thể là “cười”; nhưng đôi lúc có “cười ra nước mắt” (face with tears of joy). Có quá nhiều bộ ba của cười. Đơn cử: cười đểu, cười khả ố, cười xấc xược; còn có hình thức: cười mím chi, cười châm biếm, cười ngạo nghễ; hoặc cười dịu dàng, cười nham hiểm, cười ruồi (cười nhếch mép); hay cười tình, cười híp mắt, cười bẽn lẽn… Trên 52 kiểu cười tất cả.

 

Nịnh nọt, xu nịnh, và nịnh hót còn được diễn tả qua bộ ba tương đương là: tâng bốc, bốc thơm nịnh đầm. Một khi biết nịnh, thế nào cũng dối. Do vậy, dối cũng có một bộ ba gồm: dối trá, gian dối dối gạt. Từ đó nảy sanh chữ gian và bộ ba của gian là gian tà, gian tham, gian xảo. Hành động gian được miêu tả bằng bộ ba tĩnh từ: quỷ quyệt, quỷ quái xảo quyệt.

 

Nói về giận cũng có bộ ba cung bậc: giận hờn (nhẹ), tức giận (trung bình) và oán giận (tột đỉnh). Riêng về “tức”, ngữ vựng trong tiếng Việt có “tức bầm gan” (thấp) và “tức tím ruột” (vừa) và “tức sôi máu” (cao).

 

Trên đây là cái “tức” do người khác đem đến cho mình với chủ đích gây mình tổn thương tối đa; trong khi đôi lúc mình cũng làm người khác “tức” nhưng nhẹ nhàng hơn - chỉ qua hành vi “trêu” gồm: “trêu ghẹo”, “trêu chọc” “trêu người” (không hề có ác ý).

 

Càng đi sâu vào ngôn ngữ Việt, mình mới thấy tiếng nước mình khá “lắt léo” - khiến cho người nước ngoài muốn học cũng phải ráng “gồng” mình mà học, “bóp” óc mà nhớ và “trẹo” miệng mà nói. Nhưng cũng có thể nhờ đó mà nhiều người cho rằng tiếng nước Việt rất giàu! Vui mừng thay!

 

 

D. Đ. (Viết riêng cho Dân Việt News)