Bản ngã (hay “cái tôi”) là một khía cạnh quan trọng của tâm lý con người, đóng vai trò trung gian giữa những ham muốn bên trong và thế giới bên ngoài. Nó giúp chúng ta vượt qua những thách thức của cuộc sống bằng cách cân bằng những thôi thúc của bản thân với thực tế và các chuẩn mực xã hội. Mặc dù đôi khi bản ngã có thể dẫn đến xung đột và cản trở sự phát triển cá nhân, nhưng nó cũng rất cần thiết để duy trì ý thức về giá trị bản thân và bản sắc.

 

Hiểu và quản lý bản ngã có thể dẫn đến một cuộc sống hài hòa hơn. Nhưng nếu để bản ngã ra khỏi tầm kiểm soát, tức thì nó là một “sát thủ” của cuộc đời – chẳng những nó gậm nhấm tâm hồn trong sáng mà còn tạo ra những ngăn cách khi giao tiếp.

 

CHINH PHỤC BẢN NGÃ

Một người muốn chinh phục bản ngã, trước tiên phải hiểu bản chất của nó và sau đó áp dụng các kỹ thuật khác nhau để quản lý và giảm thiểu ảnh hưởng của nó.

 

Việc đầu tiên cần nuôi dưỡng nhận thức bản thân. Hãy chú ý đến suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của mình để nhận ra khi nào bản ngã (cái tôi) đang chi phối hành động một cách cố chấp. Trong một khoảnh khắc, hoàn toàn không phán xét để quan sát những bản năng bị cái tôi chi phối tất sẽ biết được sức mạnh của bản ngã mà phòng chống về sau.

 

Một đôi khi cũng chấp nhận sự tổn thương vì bản ngã. Cho phép bản thân dễ bị tổn thương để mở lòng với những trải nghiệm và quan điểm mới, thách thức lòng tự trọng trước thôi thúc của bản ngã.

 

Thực thi những điểm trên, ta đã tương đối thấu rõ sức mạnh của bản ngã (cái tôi), khía cạnh khao khát của bản ngã. Từ đó, ta có thể áp dụng những kỹ thuật để quản lý bản ngã.

 

Để bản ngã nằm yên, ta phải biết lắng nghe. Thực sự lắng nghe những gì người khác nói, ngay cả khi ta không đồng tình, để tạo ra không gian cho sự kết nối có ý nghĩa.

 

Bản ngã bộc phát thường là khi chủ của nó không có lòng biết ơn. Không biết ơn đem đến kiêu kỳ, nảy sinh ý tưởng “xem trời bằng vung”. Hãy dành thời gian mỗi ngày để trân trọng những điều tốt đẹp trong cuộc sống – ngay cả việc rất thường là biết ơn Trời đã cho chúng ta không khí để thở; từ đó thay đổi góc nhìn khỏi những suy nghĩ bị cái tôi chi phối.

 

Bằng cách kết hợp những thực hành này vào cuộc sống hàng ngày, ta có thể tạo ra một cuộc sống vui thỏa, không phiền muộn và gắn kết hơn, thoát khỏi những ràng buộc của bản ngã vốn có thể cản trở sự phát triển và hoàn thiện bản thân.

 

PHẬT GIÁO GIẢI TRỪ BẢN NGÃ NHƯ THẾ NÀO?

Phật giáo dạy rằng bản ngã là ảo tưởng, xuất phát từ suy nghĩ, hành động và cảm xúc của mỗi người. Đó là niềm tin rằng mỗi người là những thực thể riêng biệt, tồn tại độc lập với thế giới xung quanh. Đức Phật mô tả khái niệm này là “quan niệm sai lầm về bản ngã”.

 

Bản ngã thể hiện dưới nhiều hình thức, chẳng hạn như tự đồng nhất với ngoại hình, địa vị xã hội, chức danh hoặc thành tích. Những nhận dạng này trở thành nền tảng cho giá trị bản thân và thường dẫn đến sự ràng buộc, lo lắng và đau khổ khi đánh mất chúng.

 

Để buông bỏ bản ngã, Phật giáo dạy thực hành thiền chánh niệm, giúp quan sát hoạt động của bản ngã và bắt đầu tách mình ra khỏi nó. Một khái niệm quan trọng khác trong Phật giáo có thể giúp giảm bớt bản ngã là học thuyết vô ngã, nhằm mục đích làm xẹp đi cái tôi đang bám víu. Bằng cách nhìn nhận bản thân đúng với bản chất thực sự của chúng ta để có thể làm giảm bớt lo lắng và sống một cuộc sống bình yên hơn.

 

Những lời dạy cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc buông bỏ bản ngã trong cuộc sống hàng ngày. Bằng cách tự hỏi liệu sự kiện khó chịu đó có đáng để buồn phiền hay không và liệu phản ứng đó có phải là để bảo vệ bản ngã hay không, chúng ta có thể bắt đầu buông bỏ và cải thiện suy nghĩ của mình. Quá trình buông bỏ bản ngã này là một hành trình suốt đời đòi hỏi sự tu tập nội tâm và thực hành chánh niệm.

 

 

 

QUAN ĐIỂM CỦA KINH THÁNH VỀ BẢN NGÃ LÀ GÌ?

Kinh Thánh (Cơ đốc giáo) hiếm khi sử dụng thuật ngữ cụ thể “cái tôi”, nhưng luôn đề cập đến khuynh hướng tự đề cao mình hơn Chúa hoặc người khác của con người. Trong nhiều đoạn, lòng kiêu hãnh (một sự tự tôn trong lòng) gần giống với cái mà tư tưởng hiện đại gọi là “cái tôi”.

 

Từ những ghi chép đầu tiên, câu chuyện Kinh Thánh đã phơi bày những hậu quả tai hại của lòng kiêu hãnh. Dự án Tháp Babel (Sáng Thế Ký 11:1-9) là hình ảnh thu nhỏ của nỗ lực tự tôn vinh của nhân loại. Thay vì tìm kiếm Chúa, họ cố gắng tạo dựng danh tiếng cho mình, dẫn đến sự hỗn loạn và phân tán. Câu chuyện này chứng minh rằng việc tìm kiếm danh tiếng cá nhân hơn là vinh quang của Chúa sẽ dẫn đến sự chia rẽ và suy tàn về mặt tâm linh.

 

Trong Cựu Ước, sách Châm Ngôn đưa ra những lời cảnh báo trực tiếp về mối nguy hiểm của việc tự đề cao bản thân quá mức: "Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau, và tánh tự cao đi trước sự sa ngã ." (Châm Ngôn 16:18).

 

Những đoạn như Giê-rê-mi 9:23-24 nhắc nhở dân sự Chúa không nên khoe khoang về sự khôn ngoan, quyền năng hay sự giàu có, nhưng hãy tự hào về việc biết và hiểu Chúa.

 

Trong Tân Ước, Chúa Giê-su thường kêu gọi các môn đồ của Ngài từ bỏ việc tự đề cao bản thân: “Bởi vì ai tự nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên.” (Lu-ca 14:11). Lời dạy của trong Kinh Thánh chỉ ra rằng tham vọng ích kỷ dẫn đến nguy hiểm thuộc linh, trong khi sự khiêm nhường đón nhận phước lành của Đức Chúa Trời.

 

Theo Kinh Thánh, khi con người đặt bản thân vào vị trí trung tâm, xung đột và xa lánh thường xảy ra. Gia- cơ (sứ đồ của Chúa Giê-su) nhấn mạnh rằng “Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường.” (Gia-cơ 4:6b). Bản ngã có thể khiến con người mù quáng trước nhu cầu được cứu rỗi, khiến họ xa rời sự phụ thuộc vào Đấng Christ. Theo thời gian, sự kiêu ngạo không được kiểm soát có thể phá vỡ các mối quan hệ, cả giữa con người và thần thánh, dẫn đến sự trì trệ về mặt tâm linh và sự cô lập về mặt cảm xúc.

 

Tân Ước luôn đưa ra một phương thuốc thiết thực cho bản ngã: thừa nhận sự phụ thuộc của một người vào Đấng Christ đã bị đóng đinh và phục sinh. Ga-la- ti 2:20 chép: “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi.” Bằng cách đồng nhất với sự chết và sự phục sinh của Đấng Christ, người tin Chúa đã phá bỏ thần tượng của bản ngã và đón nhận cuộc sống mới mà Ngài ban tặng.

 

Trong thực tế, vì coi trong cái tôi (tôn cao bản ngã), người ta thường không bao giờ nhận lỗi – cứ xem mình là nhất.

 

Thế nên trong tiếng La-tinh có cụm từ “Mea culpa” (đọc là: mā-ä ku̇ l-pä) - có nghĩa là "do lỗi của tôi" - là một câu cảm thán xin lỗi hoặc ăn năn, được dùng để chỉ "Đó là lỗi của tôi" hoặc "Tôi xin lỗi".

 

Tuy nhiên, Mea culpa cũng là một danh từ. Một  tờ báo có thể đăng “mea culpa” vì đã đăng thông tin không chính xác, hoặc một chính trị gia có thể đọc bài phát biểu “mea culpa” về những sai trái trong quá khứ.

 

Mea culpa cũng là một trong nhiều thuật  ngữ tiếng Anh có nghĩa là "tội lỗi". Một số ví dụ khác là culpable ("đáng bị lên án hoặc đổ lỗi, đặc biệt là vì sai trái hoặc có hại"), guilty ("người phạm tội hoặc có lỗi"), và exculpate ("giải thoát khỏi lỗi lầm hoặc tội lỗi bị cáo buộc").

 

Thuật ngữ này thường được nhắc nhở trên môi miệng người khiêm nhường để diệt bỏ “cái tôi”. Hay nói cách khác đi, một người biết dùng “mea culpa” để nhận lỗi mình hay tỏ ra mình muốn xin lỗi sẽ dẫn đến đức tánh nhu mì, không kiêu căng và rất khiêm nhường để từ đó bản ngã nằm yên, cái tôi không vùng dạy.

 

Người Việt cũng từng được đề cao là hiếu khách, nhã nặn và giàu lòng yêu thương. Lời ca dao trong dân gian là minh chứng cụ thể như:

-Chín bỏ làm mười

-Thương người như thể thương thân

-Nhún nhường quý trọng biết bao Khoe khoang kiêu ngạo ai nào có ưa.

 

Giữa những người khiêm nhường, luôn luôn có sự hòa thuận. Nhiều người hòa thuận sẽ có được một cộng đồng vui vẻ, một đất nước an cư, lạc nghiệp. Mea culpa! ª

 

 

D. Đ (viết riêng cho Dân Việt News)