Trong số các con vật trang trí của người An Nam, bốn con vật siêu nhiên gọi là tứ linh chiếm vị trí đầu tiên. Đó là long (rồng), ly (lân), quy (rùa) và phụng (phượng). Chúng là một biểu trưng của tín ngưỡng với những phẩm chất huyền bí. Bên cạnh đó còn thấy những con vật khác như hạc, sư tử, dơi, cá cũng mang ít nhiều đặc điểm tín ngưỡng. Con hổ cũng có tính chất rất đặc thù, nó đôi khi được thắp hương thờ cúng và dùng làm bùa chú để hóa giải và xua đuổi tà ma. Vả lại, chúng ta đã thấy trái cây cũng có tính chất ít nhiều như vậy, dùng làm lời cầu chúc mang hàm ý tín ngưỡng và siêu nhiên.
Con rồng tên Hán Việt là long (龍) rất được ưa dùng trang trí trong mỹ thuật An Nam. Trong cung đình nó có vị trí riêng vì là biểu tượng của hoàng đế, nhưng cũng thấy rồng ở chùa chiền và tư gia; đặt trên mái nhà, đầu hồi, đòn tay, trên đồ gỗ và hoa văn vải; có cả ở những cấu kiện tàu thuyền, cho đến những miếng ván trang trí cũng chạm khắc hình rồng.
Nói cho đúng, rồng không được người An Nam cúng bái, nhưng chúng lại được cho là có một quyền năng siêu nhiên: vừa là long vương vừa là chúa tể trên đất liền, mang lại hạnh phúc cho người sống và sự an lành cho người chết. Trong vô thức người An Nam hẳn xem con rồng như một vị thần bảo trợ nên hình ảnh rồng có mặt ở khắp nơi.
Theo truyền thuyết, rồng Trung Hoa “có sừng hươu, đầu lạc đà, mắt quỷ, cổ rắn, bụng cá sấu, vảy cá, móng vuốt chim ưng, lỗ tai bò, sừng chính là cơ quan để nó nghe”. Hình rồng của nghệ sĩ An Nam có nhiều điểm khác nằm ở: sừng, đôi mắt sáng rực, vảy phủ toàn thân, bờm tua tủa, móng sắc, đuôi xoắn ốc.
Như tôi đã nói rồng là biểu tượng của hoàng đế, ai cũng rõ trong trường hợp này rồng có năm móng. Vì vậy khi thấy trên đồ gỗ, rương hòm, gốm sứ… có rồng năm móng tức là những món đồ ít nhiều trực tiếp do vua dùng. Còn dành cho những hạng người khác thì rồng chỉ có bốn móng.
Rồng còn là biểu tượng cho người chồng, vị hôn phu, và thường hơn dùng để chỉ người đàn ông. Phụ nữ được biểu tượng bằng con phụng. Các bài ca dao hay dùng các hình tượng này để ám chỉ nam giới và phụ nữ; và khi thấy trên tấm biển, tấm thêu có hình con rồng và con phụng thì đó là người ta muốn ám chỉ hôn nhân. Thường nghĩa bóng của thể hiện này là chữ ‘hỉ’ dính đôi (song hỉ), có nghĩa là chung vui, hạnh phúc lứa đôi.
Rồng được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau. Khi thì là hình nguyên con rồng nhìn ngang như trên gờ nóc mái nhà, lan can cầu thang, trên vải thêu, trên bức chạm hay bức họa, nói tóm lại trên rất nhiều món; khi thì chỉ thấy nguyên mặt nhìn chính diện với đầu và hai chân dạng ra gọi là ‘tàng long’ (rồng trong hang ổ) như ở mặt cổng lớn vườn hoa, đền miếu, dinh thự. Cũng có khi với đầu rồng và hai chân dạng lại gọi là ‘mặt rồng’ hay ‘mặt nả’, thường thấy ở đầu hồi tam giác ở chùa chiền và dinh phủ của người An Nam và để đối với hình con dơi trên trán bia, ở mặt trước khung chân tủ,… Hình đầu rồng chính diện ở trán có chữ vương (vua) như là vết nhăn trên mặt. Cũng có khi đó là chữ ‘thọ’ cách điệu, trường hợp này thường nằm trong nửa hình chữ nhật có góc dưới bẻ quặp xuống, viền vài đường kỷ hà. Người An Nam gọi hình này là ‘rồng ăn chữ thọ’, một dấu hiệu điềm lành và cũng là sự cầu mong trường thọ.
Trên gờ nóc mái, rồng được thể hiện dạng kỷ hà hai con (song long) ở hai đầu gờ. Ở giữa gờ nóc người ta để hỏa châu đề hai con rồng chầu vào. Toàn bộ hình hai con rồng và hỏa châu gọi là ‘lưỡng long triều nguyệt’. Hình tượng trên gờ nóc này thể hiện một sức mạnh thần bí, sự cầu mong có mưa, vì hỏa châu tượng trưng cho sấm sét còn hai con rồng là long vương làm mưa.
Một thể hiện gần gũi với thể hiện trên là ‘lưỡng long tranh châu’ theo cách gọi của người An Nam. Hai chủ đề này thường xuyên được trộn lẫn vào nhau, hoặc là theo thiết kế của người nghệ sĩ hoặc là theo lý giải của dân gian. Ở chủ đề dưới thì người ta vẽ hai con rồng đánh nhau hơn là đánh nhau giành quả châu; và quả châu này không có các ngọn lửa bao quanh.
Nếu có điều kiện, dù trong chủ đề nào con rồng cũng có mây bao quanh, mây có dạng trải ra như dải lụa hay cuộn lại trang nhã. Ẩn trong mây hay kết hợp với mây có những sợi lửa rời rạc. Cũng thường thấy rồng cỡi trên sóng nước ngoài biển. Nhưng sóng, sợi lửa và mây luôn được cách điệu.
Trang trí mây cũng cho ra một thể hiện đặc biệt gọi là ‘long ẩn vân’ (rồng ẩn trong mây); rồng uốn khúc trong các mảng mây và lần lượt lộ ra từng phần con rồng. Nhiều chén gốm đời Thiệu Trị có mô-típ này.
Rồng kết hợp với cá cho ra ‘ngư long hí thủy’ nghĩa là rồng và cá đùa nước. Con cá ghếch mõm đón luồng nước từ miệng con rồng ẩn trong mây phun ra. Theo dân gian An Nam con cá đó là con cá chép.
Không phải chỉ có một con vật duy nhất gọi là rồng. Ngoài con rồng đúng nghĩa còn thấy có con giao và con cù.
Theo từ điển của P. Couvreur, con giao hay giao long là ‘rồng không sừng’ mang dáng dấp con rắn, cái cổ nhỏ nhắn, bốn chân và râu trắng ở dưới cổ. Còn theo Eitel, con giao là ‘rồng uốn gập, có bốn chân’, theo Giles là ‘rồng có vảy’; cuối cùng theo Génibrel là ‘con cá sấu’.
Con cù hay cù long cũng mơ hồ không kém. Couvreur thì nói đó là ‘con rồng có sừng’, nhiều người lại nói là ‘rồng không sừng’. Với Eitel là ‘rồng non có sừng’, Giles cho dó là ‘rồng vàng’, Génibrel thì là ‘con rồng, con quái vật thần thoại, chẳng ai bảo nó có sừng’. Paulus Của: ‘Loài rồng không có sừng, dân gian cho rằng nó sống dưới đất và khi trồi lên xẻ đất tạo thành sông’.
Các nghệ sĩ An Nam thì xác định một điều: cả giao lẫn cù đều không có sừng. Chúng cũng không có bờm, cũng chẳng có râu như P. Couvreur nói. Tôi cũng cho rằng chúng không có vảy. Vậy có chân không? Điều này còn nghi ngờ vì theo tôi biết giao và cù không bao giờ được thể hiện nguyên hình dạng, lại luôn luôn biến cách; người ta chỉ thấy được đầu và cổ của chúng thôi. Dù thế nào đi nữa giao và cù được xếp vào loại rồng cấp thấp. Một viên quan đại thần nói với tôi về món đồ gỗ lâu đời trong nhà ông ta, ông nói nó thể hiện hình con giao chứ không phải con rồng thông thường, vì dân gian nhiều lúc không dám thể hiện hình con rồng đích thực.
Tuy nhiên phải thừa nhận người ta hay pha trộn con rồng thông thường với con giao trong họa tiết mỹ thuật. Cùng một bức chạm, người An Nam, thậm chí cả nhà điêu khắc An Nam cũng nhìn nhận khác nhau, có người bảo đó là con rồng và có người bảo đó là con giao. Do vậy tôi chỉ dùng chữ rồng để chỉ một hình ảnh dù đó là rồng hay giao. Tuy nhiên có lúc tôi dịch chữ giao là rồng-rắn (serpent-dragon).
Đối với con cù, nó có nét chuyên biệt, nếu không ở hình dáng hay và thuộc tính thì cũng ở cách dùng và vị trí người ta đặt nó: tay tỳ của ngai đá để ngoài trời dành cho một số nữ thần có trang trí đầu cù long. Chi tiết sườn nhà bên ngoài nối cột và bên trong nối lỗ đòn tay gọi là ‘xà cù’ có thể lấy tên từ con cù, đuôi chi tiết này đôi khi trang trí hình đầu con rồng.
Biến cách của con rồng rất đa dạng.
Rồng nguyên con, hoặc là rồng đích thực hay con giao, thường là hồi văn hóa long; lá và dây lá là lá hóa long; hóa long thấy ở mây và trúc và một số loài cây khác như: tùng, mẫu đơn, cúc, loa kèn,…
Rồng chính diện biến cách gọi là ‘mặt nả’. Người ta hay giải thích mặt nả có nghĩa là mặt rồng, tôi chẳng rõ chữ ‘nả’ nghĩa là gì. Họa tiết tạo mặt rồng nhìn chính diện có nhiều thứ khác nhau tùy theo từng nghệ sĩ. Có khi là lá lật, có khi là hoa mẫu đơn, lại có khi là bông tây, lá hay dây lá. Người ta cũng dùng quả phật thủ và hoa sen biến cách thành đầu rồng nhìn chính diện. Chùm và tràng hoa biến cách thành họa tiết giao-hoa (hoa hóa giao).
(Les Motifs de l’Art Annamite)
Tác giả: L. Cadière
Dịch thoát: Đức Chính
(Theo trithucvn.net)