Trong dân gian người Việt, câu nói “Trăm voi không được một bát nước xáo” chưa hẳn là dễ hiểu và đôi khi còn khó khăn hơn nữa bằng câu chữ Nho “Hữu danh vô thực” mặc dù phần nào cũng quy về ý nghĩa chung là “thùng rỗng kêu to” hoặc “Có tiếng mà không có miếng”. Nhờ đó chữ Việt chúng ta mới giàu và trở nên gai góc đối với người ngoại quốc muốn học nói và học để hiểu. Ngẫm nghĩ sâu xa về ngôn ngữ Việt, mình càng yêu tiếng nói dân mình. Trên trang báo này, hôm nay xin suy ngẫm về câu “Hữu danh vô thực”.
“Hữu danh vô thực” đương nhiên phải do các cụ đồ Nho nghĩ đến và nói ra, chứ không thể nào từ cửa miệng của một bác nông dân tay lấm chân bùn. Các cụ không nói cách “huệch toẹt” như người dân quê chân chất “thẳng như ruột ngựa”, mà phải nói sao cho thâm thúy, cho người ta phải giựt tai, bứt tóc mới thấu hiểu… mà đôi khi lại hiểu sai, nghĩ chưa thấu…
Bốn chữ trong câu “Hữu danh vô thực” đều là chữ Hán, viết như vầy “有名无实” (người Trung Hoa phát âm: Yǒu míng wú shí). Từng chữ một có nghĩa như sau:
- Hữu (有) : Có
- Danh (名) : Tiếng tăm, tên tuổi
- Vô (无) : Không, chẳng có gì
- Thực (实) : Một điều gì thấy rõ, có thật
Bốn chữ Nho này từng chữ có nghĩa là vậy, nhưng đứng chung thành câu thì diễn tả rộng rãi hơn. Nào là “Nói cho lắm, làm chẳng được gì” hay “chỉ có dao to, búa lớn mà thực chất là chỉ là số không” – thùng rỗng kêu to; còn khi hứa hẹn với ai, ấy chỉ là “hứa lèo” chứ làm gì mà “nói sao làm vậy”.
Câu nói “Hữu danh vô thực” áp dụng rất nhiều cho những nhà làm chính trị. Khi các ông, các bà ra tranh cử, khi các lãnh tụ muốn đủ ghế trong quốc hội để lập chính phủ, thì họ hay hứa hẹn đủ điều cho đẹp long cử tri; chừng đắc cử rồi, phần lớn những lời hứa hẹn kia có thể bị lãng quên hay chẳng thực hiện với nhiều lý do được nêu ra để “chữa thẹn”; dân ức quá bèn kêu lên “Rõ ràng đảng đó chỉ hữu danh vô thực”.
Và trong một vài trường hợp, lời nói không đi đôi với việc làm, khoe tài cán qua miệng lưỡi nhưng thực hành lại rất vụng về thì không khác gì lớp đồ tể “Rao đầu dê mà bán thịt chó”. Đó thuộc dạng người “lòe mắt thiên hạ” không có thực chất! Để răn dạy người đời “Có thì nói có, không thì nói không” chứ đừng “nổ cho kêu” trong khi trên tay chỉ có “pháo xẹp”, trong Kinh Thánh có lời ghi rằng “Hỡi anh em, trước hết chớ có thề, chớ chỉ trời, chỉ đất, cũng chớ chỉ vật khác mà thề; nhưng phải thì nói phải, không thì nói không, hầu cho khỏi bị xét đoán.” (Gia-cơ 5:12). Mình không có tài năng thì nói không vẫn được người khác thương; còn đi “phịa” thì chỉ để người ghét! Nói dối, nói dóc, nói láo… hứa hẹn để rồi “Trăm voi không được một bát nước xáo”.
Con voi là động vật to lớn, cân nặng vài, ba tấn so với một con bò trung bình chỉ khoảng 500 kg – tức voi nặng gấp sáu lần bò. Thế mà, chỉ một kí-lô nuôi bò nấu ra cũng được vài, ba tô nước xáo; nhưng cả 100 con voi nếu đem hầm xúp cũng không cho được 1 tô nước “dùng” (đồng nghĩa với nước xáo, nước béo, nước lèo)! Vậy mới “thùng rỗng kêu to”.
Trong thành ngữ của tiếng Anh, cũng có câu mang nghĩa tương tự như “All show and no substance” (tạm dịch: Chỉ có hình thức mà không có nội dung), “Empty shell” (vỏ trống rỗng) hoặc “Paper tiger” (cọp giấy).
Những người giỏi, có thực tài thường rất kín tiếng, bởi sự thành tựu của họ nổi bật ra bẹn ngoài, dẫu có che đi thì người ta cũng biết - ấy là kết quả của “hữu xạ tự nhiên hương”, chẳng cần phải khoe. Chỉ có những người “hữu danh vô thực” chẳng ai biết nhưng lại thích nổi tiếng; chẳng có gì nhưng lại muốn “hù thiên hạ” nên mới tìm cách khoác lác ngỏ hầu dễ lợi dụng và gạt gẫm người khác.
Biết rõ về các câu thành ngữ kể trên không phải để biết qua “cái nghĩa” nhưng để ghi nhớ lời nhắn nhủ, khuyên dạy của người xưa là đừng khoe khoang, khoác lác. Mình có thiện ý, có tài đức, có năng lực, có cơ hội hãy dùng những ưu điểm đó để giúp đời chứ đừng nên tạo ra cái hão huyền để bịp thiện hạ - điều đó thiếu đạo đức, tội lắm ư!.
D. Đ. (Viết riêng cho Nam Úc & Dân Việt News)