Khi nhắc tới động từ “chờ” hay động từ kép “chờ đợi” trong ngôn ngữ Việt, có thể nói “Con chờ mẹ về chợ” là câu nói đầu tiên dùng đến chữ “chờ”, có trước bất cứ một câu nói nào khác có động từ này.

 

 

Xếp hàng chờ để nhận quà tặng miễn phí (Ảnh: Người Sydney)

 

 

Trong kho tàng văn học dân gian chữ “chờ” cũng xuất hiện trong nhiều đoản khúc ca dao.

 

Đêm năm canh lụy sa cúc dục

Thiếp chờ chàng một đôi lúc đã trần ai

Chừ thiếp chờ không vãng nỏ lai

Thiếp phải trao duyên gửi phận, không lẽ ở hoài rứa răng!

 

Một chữ chờ gián đoạn, một cuộc tình chấm dứt, chắc hẳn phải một ai đó đau lòng, đứt ruột, nhớ nhớ, thương thương.

 

Rồi một cô khác, tuy đã sẵn sàng áo cưới, nhưng không rõ lý do nào người mà đáng lẽ phải sớm đưa xe hoa đến đón cô thì lại không, khiến cô phải thổn thức:

 

Áo may xếp để chờ bâu

Phận em là gái biết đâu mà chờ.

 

Chờ là thời gian ngóng trông tương đối ngắn hơn đợi, mặc dầu cả hai đều là mong một người nào, điều gì, vật chi đến với mình.

 

Có chàng trai miệt vườn nọ, thương thầm, nhớ trộm một cô; mở lời thì không dám lại mong có cơ hội được đáp lại… thật là hão huyền nhưng chàng ta vẫn đợi:

 

lao An Bình vườn cây xanh mát

Dòng Cổ Chiên dào dạt mênh mông

Thương em chỉ để trong lòng

Biết bao ngày đợi, tháng trông mỏi mòn.

 

Và tội hơn nữa, một trai quê phải lòng gái thành thị, chịu qua phà, qua cầu lên thành phố mà người đẹp chưa hé môi; cuối cùng hỏi ông Trời thì lại bị làm thinh:

 

Lên Sài Gòn phải qua sông Mỹ Thuận

Có thương không sao em lựng bựng không chịu trả lời

Năm đợi năm, tháng đợi tháng, anh hỏi ông trời, ổng làm thinh!

 

Nhưng có anh quyết giữ vẹn chữ tình, thốt ra câu hò da diết chứa đưng cà “chờ” lẫn “đợi”:

Ngó lên trăng sáng

Đám mây án, con trăng lờ

Dẫu gì anh cũng đợi chờ duyên em.

 

Chữ “chờ” trong truyền thuyết được nổi bật qua câu chuyện “Hòn vọng phu” – núi đá có hình dáng người vợ đứng ngóng chờ chồng. Toàn lãnh thổ Việt Nam có tới 7 hòn vọng phu nằm ở trên nhiều tỉnh thành: Hòn vọng phu trên đỉnh núi Bà, Bình Định; Hòn vọng phu trên đỉnh núi M'drak, Đắk Lắk; Hòn vọng phu trên đỉnh núi Nhồi, Thanh Hoá; Hòn vọng phu bên bờ khe Giai, bản Cơ Lêc, Nghệ An; Hòn vọng phu Nàng Tô Thị, Hòn Vọng Phu ở Quảng Nam; Hòn vọng phu núi đá Chồng ở Tuy Hòa.

 

Tuy nhiên, hòn vọng phu ở tỉnh Lạng Sơn với danh xưng “Nàng Tô Thị” là phổ biến hơn cả với 2 câu ca dao thường được người mẹ miền Bắc há ru con ngủ:

Đồng Đăng phố Kỳ Lừa,

Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh

 

Truyền thuyết nàng Vọng Phu là một sự tích được lưu truyền trong dân gian từ xa xưa, có nhiều dị bản truyền tụng từ miền Bắc đến miền Nam, và bản ghi lại sớm nhất về sự tích này hiện còn lưu giữ được là “Truyện thần núi Vọng phu” trong Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp (đời Trần). Các dị bản có thể khác nhau ở một số chi tiết nhỏ nhưng đều thống nhất ở những sự kiện then chốt: (1) cốt truyện xoay quanh một mối tình loạn luân: do những run rủi của số phận không lường được, hai anh em ruột lấy nhau mà không biết; (2) khi biết được sự thật về mối tính bị cấm kỵ này, người anh bỏ đi biệt xứ trong khi đó người em gái, vì không hiểu chuyện gì xảy ra, ngày ngày ngóng đợi mỏi mòn, cho đến khi thân thể hóa đá. Tên gọi “Vọng phu” ra đời từ đó.

 

Về hòn vọng phu ở núi Nhồi Thanh Hóa, người xưa kể rằng: Có một đôi vợ chồng nghèo khó nhưng hết mực yêu thương nhau. Một ngày nọ, họ nghe nói về loài cỏ quý có thể đổi được bạc vàng, vì không muốn vợ con chịu cảnh khổ cực, người chồng đã lên đường đi tìm thảo dược. Nhiều năm trôi qua, không thấy chồng về, người vợ bèn bồng con trèo đèo, vượt suối tìm chồng. Đến một ngày, nàng bồng con tìm đến một ngọn núi cao, với hy vọng sẽ tìm thấy người chồng yêu quý. Nàng ẵm con đứng trên đỉnh núi, mặt ngoảnh ra biển đợi chồng đến hóa đá ngàn năm.

 

 

Tượng đá Nàng Tô Thị ở Lạng Sơn

 

 

Một tích truyện khác lại kể rằng, xưa kia có một chàng trai vốn dòng hào kiệt kết duyên vợ chồng với một cô gái nết na, xinh đẹp nhất vùng. Họ sống bên nhau quấn quýt, nàng dệt cửi quay tơ còn chàng dùi mài kinh sử, mong đến ngày ứng thí. Sau khi nàng hạ sinh cô con gái kháu khỉnh, đất nước bỗng xảy ra nạn binh đao. Người chồng phải ra biên ải bảo vệ đất nước, rồi hy sinh trong chiến trận. Ở quê nhà, người vợ vẫn thủy chung ôm con chờ chồng đến hóa đá.

 

Dưới thời VNCH, ở Sài Gòn trước năm 1975, có ba cái “chờ” mà nhiều người cho tới tận hôm nay cũng còn nhớ. Chờ thứ nhất là nhiều gia đình đưa cả vợ, cả chồng và con trên 15 tuổi ra đứng xếp hàng dài chờ trước cửa các công ty phân phối vé số quốc gia để mua hai chục tờ rồi đem đi bán lại kiếm chút tiền lời. Người mua cũng chờ kết quả xổ số vào chiều thứ Ba sau khi nghe tiếng hát của quái kệt Trần Văn Trạch: “Kiến thiết quốc gia giúp đồng bào ta, ấy là thiên chức vủa người Việt Nam”. Cái chờ thứ hai là người vợ chờ chồng được nghỉ phép để từ chiến tuyến về thăm vợ con. Và cái chờ thứ ba là “chừng nào ngưng chiến” nhất là thời kỳ cuộc hòa đàm tại Paris diễn ra có ông già phù phép Henry Kissinger đóng vai chủ đạo.

 

Sau năm 1975, khi nhiều người Việt đã di tản ra nước ngoài hoặc vượt biên, vượt biển tìm tự do thì số người còn ở lại luôn luôn chờ đợi tin tức (thoạt đầu), dần dần chờ quà hay tiền gửi về (giai đoạn nhì) và giai đoạn ba là chờ bảo lãnh. Cứ 10 gia đình người Việt, có thể có tới vài, ba gia đình trong hoàn cảnh này.

 

Ngày nay, tại Việt Nam có phần khác, người ta cũng chờ nhưng là chờ được cấp visa để đi du lịch, thăm thân nhân ở ngoại quốc hoặc cái chờ to hơn cả là chờ giấy chấp nhận cho nhập cư sinh sống hay lập nghiệp tại nước ngoài.

 

Hiện những người Việt ở nước ngoài, thiết tưởng được tự do, được hưởng nền giáo dục tốt từ mẫu giáo đến đại học, được bảo đảm an sinh xã hội, chăm sóc y tế, hỗ trợ khuyết tật và tuổi già thì chẳng còn gì mà phải chờ vì mọi thứ đó sẽ tới với mình hay mình tới với chúng.

 

Ấy vậy mà vẫn có chờ. Chờ dưới hình thức ngắn hơn, không phải mong đợi dài cả cổ nhưng đứng mỏi cả chân.

 

Người đi làm thì chờ tàu điện tới ga không đúng lịch trình, các bà nội chợ, người hay mua sắm thì chờ các cửa hàng, tiệm buôn, siêu thị “discount” (giảm giá).

 

Người bình thường có gì để chờ không? Thưa có. Chờ một cửa hàng khai trương; chủ nhân sẽ tặng miễn phí sản phẩm. Đơn cử, tại Cabramatta trong tuần có một cửa hàng bánh mì thịt mới mở ngay ở quảng trường “Đầu trâu, mặt ngựa”; họ đề bảng “Free Pork Roll”. Ối chua choa, thiên hạ xếp hàng dài trên vài tram thước, uốn hai, ba đợt. Giá một ổ bánh mì trung bình $7, đứng chờ hơn nửa giờ chưa tới lượt, nhưng người chờ vẫn đông. Trước đây, một tiệm tàu hũ khi khai trương cũng giảm giá và tặng không thứ này thứ nọ, người xếp hàng chờ đứng kín không còn lối đi trên hè phố!

 

 

Chờ là một từ rất phổ thông, ở đâu cũng có chờ, ở thời đại nào cũng có, nước nghèo cũng có, nước giàu cũng có. Mong rằng Dân Việt (Sydney) và Nam Úc (Adelaide) cũng được “chờ để đọc” vì chúng tôi cố gắng đem món ăn tinh thần bổ ích đến mọi gia đình và tất nhiên ông chủ báo, Thạc sĩ Nguyễn Văn Phong, vui mừng tặng báo đến đọc giả.

 

Chờ  chờ,  đợi  đợi,  trông  trông, Bao nhiêu chờ đợi mặn nồng bấy nhiêu.

 

 

Người Sydney (Theo Báo Nam Úc savietnews.com.au)