Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc, ngoài người Việt chiếm đa số, còn có tới 54 dân tộc thiểu số. Trong số này người Mường với 1,452,100 dân, đứng hàng thứ tư, chủ yếu sống tập trung ở các tỉnh miền núi phía Bắc, đặc biệt là ở Hòa Bình và Thanh Hóa.

 

Người Mường bảo tồn những phong tục tập quán khá độc đáo thể hiện qua các nghi lễ thờ cúng, cưới hỏi và giao tiếp.

 

Phương châm sống động của người Mường là “Sông có khúc, người có lúc” - nghĩa là tương trợ lẫn nhau khi trong vòng họ hàng, người thân hay bè bạn có ai lỡ vận, sa cơ thì người khá hơn sẵn sàng đưa tay cứu giúp; thậm chí ai đó chẳng giàu có gì mà chỉ “chấp đỗi qua ngày” cũng không ngần ngại chia sẻ chút gì mình có để người đói cũng được no bụng, người lạnh cũng có áo mặc cho ấm thân.

 

Một điều khá thú vị nữa là việc tiếp khách đến thăm nhà được ân cần thể hiện qua câu “Trâu ra đồng ăn cỏ, khách đến nhà dùng cơm”. Mỗi khi khách đến nhà, tục lệ này không thể nào bị bỏ qua. Là khách quý từ bản xa lại, chủ nhà lập tức lấy gạo ngon nói vợ chuẩn bị cơm, còn mình thì đem lưới ra suối hoặc ao nhà đánh cho được vài con cá để rán giòn và nấu canh rau.

 

Trong bữa ăn, gặp bạn thân thiết, chủ nhà nhất định đem loại rượu nếp đã ủ lâu ngày ra đãi. Chủ, khách ăn uống thật thà, tự nhiên – không hề khách xáo – và chuyện trò vui vẻ. Bên cạnh đó, chủ nhà luôn tỏ ra nhã nhặn và khiêm nhường. Dẫu bữa cơm được chuẩn bị chu đáo nào là thịt gà, cá gỡ nhưng chủ vẫn nói “Mời bác tạm dùng cơm muối, canh nhạt với chúng tôi”! Dù rượu ngon đến mấy, chủ vẫn bảo là rượu lạt, rượu chua. Vồn vã nhưng khiêm tốn là d0ie63m đặc biệt, trổi bật của người Mương trong phép ứng xử, xã giao. Cũng có thể bắt nguồn từ đức tính tốt này, dân Mường xem ra ít cãi cọ, tranh luận hay xố xát. Cộng đồng người Mường luôn luôn là một cộng đồng ôn hòa, sống biết nhường nhịn, không thích đua tranh, giành giựt.

 

Một thói quen khác nữa trong khi tiếp bạn đến nhà chơi, bất luận thân hay sơ, ngay khi bạn vừa tới chân cầu thang (người Mường ở nhà sàn), đích thân chủ nhà mau mắn ra chào. Người vợ vội vàng trải chiếu hoa bên cạnh cửa sổ để chồng và bạn hàn huyên bên tách trà hoặc cùng uống rượu cần. Mở đầu câu chuyện thường là lời thăm hỏi sức khỏe của người thân trong gia đình của nhau từ ông bà, cha mẹ ruột, cha mẹ vợ tới gia đình vợ con; tiếp theo mới đến chuyện vãn với nhau về về đời sống hàng ngày.

 

Trong tập quán của dân tộc Mường, người cao tuổi luôn luôn được kính trọng, Người Mường cho rằng các bô lão trong bản là những người dày dặn kinh nghiệm đối khó với khó khăn mùa màng, thú dữ trong rừng và biết cách giao tiếp sao cho hòa thuận. Họ là trụ cột tinh thần của cộng đồng. Bản tính chung của người Mường là trung thực, thẳng thắn, khinh ghét những người coi vật chất cao hơn tình người. Khi đã tin nhau thì coi nhau là anh em, sống chết vì nhau.

 

Về âm nhạc, chiêng cồng của dân tộc Mường không chỉ là một phần của văn hóa dân gian mà còn là biểu tượng của sự đoàn kết và sức mạnh cộng đồng. Cồng (loại có núm) chiêng (loại không núm) tham gia vào tất cả các hoạt động đời sống người Mường, từ khi sinh ra cho đến khi về với đất mẹ. Cồng chiêng là báu vật trong ngôi nhà của mỗi gia đình người Mường và được giữ gìn qua các thế hệ. Cồng chiêng không chỉ là nhạc cụ, mà còn là "tiếng nói của cộng đồng", là sợi dây kết nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng Mường là vô cùng quan trọng để duy trì bản sắc dân tộc và truyền lại cho các thế hệ sau./.

 

 

(Người Rỗi Rảnh)