Dã Tràng xe cát Biển Đông,

 

Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì!

 

 

Hai câu thơ trên được truyền tụng trong dân gian, hầu như không một người Việt nào lại không nghe, không biết đến. Người ta đọc hai câu lục bát ấy với ý nghĩ chê trách anh Dã Tràng là một tên khờ dại, làm việc miệt mài nhưng chỉ uổng công. Ít có ai nghĩ rằng Dã Tràng có được một tấm lòng nhân hậu, trọng tình nghĩa, vững bền với thủy chung. Câu chuyện về Dã Tràng tạm chia làm năm giai đoạn.

 

 

Giai đoạn đầu: Bộc lộ một Dã Tràng biết điều ngay lẽ phải,
biết bênh vực kẻ cô thế, yếu đuối

 

Truyện kể rằng, hai vợ chồng Dã Tràng sống êm ấm với nhau tại một vùng quê. Khi làm cỏ, Dã Tràng bắt gặp một hang của cặp rắnởgóc vườn. Một hôm nọ, DãTràng thấy con rắn cóđầu nhỏnằm cuộn trong hàng vìđang lúc thay đổi da; con rắn đầu to hơn - Dã Tràng cho đó là rắn chồng - tha con nhái về cho vợ. Rồi ngày khác đến lượt rắn chồng lột da, Dã Tràng thấy rắn cái cùng một con rắn đầu to khác bòsong đôi cùng vềhang. Cả hai cuộn vào nhau cách khắng khít nơi bụi cỏ gần cửa hang rắn. Một chặp sau, rắn to đầu – Dã Tràng tin chắc đó là rắn đực – trườn về hướng cửa hang, DãTràng cho rằng rắn to đầu định vào trong sát hại rắn đực yếu đuối đang nằm trong hàng, bèn nhanh tay phóng lưỡi liềm phát cỏ về hướng rắn to đầu; chẳng dè liềm va vào gốc chanh và bật về hướng rắn cái, cắt rắn cái ra làm hai khúc; rắn to đầu nghe động quay lại hoảng sợ phóng đi mất dạng.

 

Dăm bảy ngày sau, đang khi nằm đu đưa võng, Dã Tràng kể vợ việc giết lầm rắn cái. Ngay khi dứt lời, Dã Tràng nghe trên máng nhà có tiếng phì phì. Cả hai vợ chồng ngước mặt lên, bắt gặp con rắn to đầu, đuôi quấn xà nhà, đầu vươn gần chỗ Dã Tràng nằm, nhả một viên ngọc xuống. Dã Tràng nhổm dậy cằm viên ngọc sáng lấp lánh và nghe được tiếng nói phát ra từ rắn:

 

- Ông là ân nhân mà tôi cứ ngỡ là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi đợi ông trên máng này chờ có dịp mổ chết để báo thù cho vợ. Nay nghe rõ đầu đuôi câu chuyện, mới biết mình hiểu nhầm; xin biếu ông viên ngọc để tạ lỗi. Khi đeo nó trên người, ông sẽ nghe được tiếng của tất cả loài chim muông, cầm thú ở thế gian.

 

 

Giai đoạn hai: Vì tốt bụng mà Dã Tràng rơi vào cảnh hàm oan.

 

Nhờ đeo ngọc quý của rắn, Dã Tràng nghe được bày quạ đen lao xao trên ngọn cau nói chỏ xuống:

 

- Ở núi Nam, có một con nai mập bị cọp vồ. Hãy lên đó lấy về mà ăn, nhưng để lại cho chúng tôi bộ đồ lòng.

 

Dã Tràng làm theo lời quạ và chỉ xẻo ít thịt xâu lại đem về. Dã Tràng mách cho láng giềng biết mà đi lấy, không quên dặn họ để lại ruột nai cho bầy quạ. Nhưng người trong làng quá tham lam; họ lấy tất cả, chẳng chừa lại tí gì.

 

Bầy quạ không thấy lòng dê, cho rằng Dã Tràng bội bạc nên đổ xô đến vườn nhà Dã Tràng kêu la nguyền rủa. Dã Tràng hỏi ra mới hay dân làng đã không làm theo lời dặn mang đến sự tức giận của bầy quạ. Giải thích thế mấy, quạ cũng không khứng chịu, cứ thế chửi mãi.

 

Không dằn lòng được, Dã Tràng đem cung tên ra bắn dọa, nhằm xô đuổi chúng đi. Chẳng ngờ bầy quạ cho rằng Dã Tràng đã “lấy oán trả ơn”, liền cắp mũi tên có tên Dã Tràng ở đuôi, tìm dịp báo thù.

 

Lúc bay ngang sông, thấy một “thằng chỏng chết trôi”, quạ đem mũi tên cắm vào cổ họng xác chết. Khi quan sở tại đến lập biên bản, thấy mũi tên có chủ nên quả quyết Dã Tràng là thủ phạm, bèn sai lính lệ bắt anh ta.

 

Dã Tràng hết sức kêu oan nhưng mũi tên là chứng cớ nên không sao thoát khỏi tội. Anh ta nài xin giải về kinh thành để vua phán xử.

 

Đường đi thăm thẳm, đêm đến đoàn giải tội nhân phải tắp vào quán ăn, nghỉ. Lúc trời gần sáng, Dã Tràng nghe có một đàn chim sẻ bay ngang nói chuyện với nhau:

 

-Chuyến này sẽ không lo đói nữa, chả sợ ai đánh đuổi. Một con hỏi:

 

-Của đâu mà vương vãi như thế? Con khác trả lời:

 

- Của vua nước kế bên. Họ toan kéo sang đánh úp bên này. Ngày hôm qua, xe vận tải lương thực của họ bi sập hố, đổ hết. Họ trở về lấy thứ khác cho nên chúng mình tha hồ hưởng.

 

Khi lính lệ thúc giục lên đường, Dã Tràng bảo họ:

 

-Xin các ông trình lại với quan, việc kêu oan của tôi giờ đây chẳng nên bận tâm, hãy lo việc trọng đại của quốc gia và rất cấp bách.

 

Bọn lính tra gạn, Dã Tràng không nói gì, chỉ nài nỉ được gặp quan sẽ trình bày rõ ràng.

 

Khi gặp quan đầu tỉnh sở tại, Dã Tràng cho họ biết nước lớn phương Bắc có ý định xâm lăng nước nhà, nhưng vì hư hỏng xe tải lương thực nên buộc phải trì hoãn. Dã Tràng phải đem mạng sống mình ra cam kết, quan trên mới tin, vội cấp báo về kinh thành để xin vua cho xuất quân chống giữ. Dã Tràng được tha.

 

 

Giai đoạn ba: Dã Tràng không màng thân mình, tỏ tình thương đến thú vật

 

Trên đường đi bộ lần về quê nhà, Dã Tràng gặp được bạn cũ giữ lại nghỉ qua đêm. Chồng bàn cùng vợ “sẵn có cặp ngỗng, đàn ngỗng con của chúng đủ khôn, mình hãy làm thịt một con, ngày mai đãi bạn lên đường”. Người vợ bằng lòng nhưng dặn chồng sáng sớm bắt ngỗng cắt tiết, vặt lông giúp mình một tay.

 

Cặp ngỗng ở ngoài chuồng nghe được, ngỗng trống bảo ngỗng mái:

 

- Mình ơi, mình ở lại nuôi con, tôi sẽđứng sẵn để cho chủ bắt”. Ngỗng mái không nghe, xin chết thay chồng. Nhưng ngỗng trống nhất quyết hy sinh, nên chạy ra sân hướng lên nhà chủ, nói vói lại phía sau:

 

-Các con ơi, ở lại với mẹ; cha sẽ không còn gặp các con nữa đâu.

 

Ngỗng mái lạch bạch chạy theo đòi chết thay chồng cho bằng được.

 

Lúc bấy giờ, Dã Tràng nằm trên bộ ván kế sát cửa sổ, anh ta nghe được cuộc đối thoại của vợ chồng ngỗng nên thấy thương con vật vô tội chỉ vì miếng ăn cho mình mà phải xa lìa con. Dã Tràng tìm cách cản ngăn bạn.

 

Suốt đêm đó, Dã Tràng không ngủ được, ngóng trông trời mau sáng. Vào đầu canh tư, Dã Tràng bước ra sân, đến trước cửa bếp thấy bạn túm được cổ ngỗng đực đang định cắt cổ. Dã Tràng nhanh tay chụp lấy dao và nói:

 

-Xin thả ngỗng ra. Tính tôi không hay sát sinh. Tình thân của chúng ta đâu phải thức ngon, vật lạ. Nếu bạn giết nó, tôi lập tức xin kiếu để đi ngay.

 

Bạn của Dã Tràng thả ngỗng ra, giục vợ chạy đi mua tép về làm cơm đãi bạn.

 

Trước khi ra khỏi cổng nhà bạn, Dã Tràng thấy bầy ngỗng con thảnh thơi bơi dưới ao vớimẹ trong khi ngỗng bốđứng bên cạnh bờ. Ngỗng đực nhả tặng Dã Tràng một viên ngọc và nói:

 

-Đa tạ ân nhân cứu mạng. Xin tặng người viên ngọc này, mang nó vào người, có thể đi dưới nước dễ dàng không khác chi đi trên bộ; nếu đem ngọc này xuống nước mà khoắng thì sẽ rung động đến tận đáy biển. Còn tép là vật đã thế mạng tôi, vậy từ nay họ nhà ngỗng chúng tôi quyết định không ăn tép để tỏ lòng nhớ ơn.

 

Khi đến bờ sông, đem ngọc ra thử như những điều ngỗng dặn. Quả nhiên đúng y như lời ngỗng. Dã Tràng đến tận thủy phủ. Long Vương hoảng sợ ra nghênh đón Dã Tràng, tiếp đãi ân cần vì nếu để Dã Tràng dùng ngọc khuấy lâu trong nước chắc chắn thủy cung sẽ sụp đổ. Lúc Dã Tràng ra về, Long Vương đem vàng bạc tống tiễn rất nhiều.

 

 

Giai đoạn bốn: Vợ Dã Tràng đi biệt mang theo hai viên ngọc quý Một hôm Dã Tràng được bà con ở làng xa mời qua ăn giỗ.

 

Đi nửa ngày đường mới tới nơi. Chừng Dã Tràng sờ lên cổ mới sực nhớ rằng đã lấy túi đựng ngọc để trên giường lúc tắm gội nên vội vã quay về.

 

Chỉ trong khoảnh khắc thời gian vắng nhà, mọi sự đã khác hẳn. Vợ Dã Tràng bị người của thủy cung quyến dụ, lấy hai viên ngọc quý của chồng cùng đi theo chúng xuống thủy cung. Tâm trạng Dã Tràng rối bời, tiếc ngọc thì ít nhưng thương nhớ vợ thì nhiều. Người lân cận đoán chừng vợ Dã Tràng vì ham mê vật chất đã bạc tình, quên nghĩa nên đánh cắp ngọc quý rồi lặng lẽ ra đi khi chồng không có nhà. Dã Tràng ngồi suy gẫm: nơi nào vợ đến, tại sao lại bỏ mình mà đi?

 

 

Giai đoạn năm: Bởi lòng thủy chung, Dã Tràng quyết tâm đi tìm vợ

 

Mặc cho lời đàm tiếu chung quanh việc vợ biệt tăm, biệt tích, Dã Tràng vẫn một mực yêu thương vợ, quyết tâm tìm được vợ mình.

 

Anh ta biết công dụng của ngọc ngỗng nên đoán rằng vợ đã ra bờ biển để tìm đường xuống thủy cung hoặc do người thủy cung bắt cóc vợ và đoạt ngọc của mình, không hề nghi ngờ gì về lòng dạ của vợ.

 

Thế rồi, Dã Tràng ra bãi biển, ngày đêm cố chở cát đắp đường, lấp biển để xuống tới thủy cung. Cho tận đến sức yếu, lực tàn Dã Tràng vẫn không chịu bỏ dở công việc.

 

Chết rồi, Dã Tràng hóa thành con còng còng nhỏ, ngày ngày xe cát thành viên.

 

Người đời hiểu chuyện bề ngoài nhưng không thấu rõ lòng anh ta nên đặt thơ rằng:

 

Công Dã Tràng hàng ngày xe cát, Sóng biển dồn tan tác còn chi.

 

Hay là:

 

Con còng còng dại lắm không khôn, Luống công xe cát sóng dồn lại tan. Và quen thuộc nhất là:

 

Dã Tràng xe cát biển Đông .

 

Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì.

 

 

 

 

 

(Dzoãn Điền - Báo Nam Úc)