(Bài Viết Độc Quyền Báo Dân Việt - DÂN VIỆT News)
Theo truyền tuyết, tổ tiên người Việt có tài đi trên nước như đi trên cạn
Bạn đã xem phim “Ngư ông và Biển cả” chưa? Phim này dựa trên tiểu thuyết “The Old Man and the Sea” của nhà văn kiêm nhà báo Mỹ Ernest Hemingway (sanh ngày 21 tháng 7, 1899 tại Oak Park, Illinois; mất ngày 2 tháng 7, 1961 tại Ketchum, Idaho (Hoa Kỳ). Ông đã nhận được giải Nobel Văn học năm 1954 qua tác phẩm này.
Tôi nhớ rõ phim này vì hôm phim chiếu ở Sài Gòn tôi có đưa “bồ” vào rạp Rex để xem và được em khen là “phim dễ buồn ngủ”. Chả là vì, phim xoay quanh câu chuyện về cuộc sống của một ngư dân Cuba đã cố gắng chiến đấu trong gần ba ngày đêm với một con cá kiếm khổng lồ trên biển khi ông câu được nó. Sang đến ngày thứ ba, ông dùng lao đâm chết được con cá; ông buộc nó vào mạn thuyền và cho thuyền quay vào bờ. Nhưng một đàn cá mập đánh hơi thấy mùi của con cá mà ông bắt được nên đã ùa tới; ông rất dũng cảm đem hết sức mình chống chọi với lũ cá mập, phóng lao và thậm chí dùng cả mái chèo để đánh chúng. Ông giết được khá nhiều cá mập và cuối cùng đuổi được chúng đi. Thế nhưng khi thuyền về đến bờ và nhìn lại thì con cá kiếm của mình đã bị rỉa hết thịt, chỉ còn trơ lại một bộ xương trắng.
Nay tôi nghiệm lại, người Việt và Biển Cả còn oai phong hơn nhiều; kiên gan bền chí và phấn đấu hơn nhiều; nhất là thành công trên biển thì số một… Chẳng thế mà đã có nhiều trăm ngàn người Việt qua danh xưng “thuyền nhân” vượt hàng ngàn hải lý trong gian nan, thiếu thốn để đi tìm tự do và đến được vùng đất tự do… nay thì quá giàu có và thành đạt.
Theo truyền thuyết, dòng giống dân tộc Việt từ cha là Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ sanh ra. Lạc Long Quân có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Nếu theo học thuyết y học DNA thì “chất biển” hẳn cũng lưu truyền trong dòng máu người Việt.
Thực tế, Việt Nam có bề dài tới 3,200 cây số tiếp giáp với Biển Đông; sông lạch lại nhiều nên đa số trẻ em Việt Nam thích vui đùa với nước – đố ai mà không đùa giỡn trong cơn mưa rào một lần khi ở tuổi niên thiếu – thì chuyện người Việt giỏi về câu cá bằng cần, bắt cá bằng nơm, bằng vó và tiến bộ hơn là đánh cá bằng thuyền trang bị đủ tiện nghi của nghề ngư nghiệp… là chuyện đương nhiên.
Phải nói, từ Phan Thiết đổ ra miền Trung, tới Thanh Hóa, Hải Hậu và Giao Thủy (thuộc tỉnh Thái Bình, Nam Định) đến Hải Phòng, Đồ Sơn đâu đâu cũng có biển. Và ở đâu có bờ biển là ở đó có làng chài tập họp nhiều ghe thuyền (kể cả thuyền thúng nhơ vùng Khánh Hòa, Nha Trang) để chung sức ra khơi vẫy vùng cùng biển cả.
Còn trong Nam, từ Vũng Tàu, Cần Giờ, Bến Tre, Vĩnh Long, Vĩnh Bình xuống tận Mũi Cà Mau, kéo dài qua Hà Tiên… biển là biển; bảo sao dân Nam Bộ không giàu có hải sản để làm khô, làm mắm và nổi tiếng là mắm nhĩ Phú Quốc!
Nhờ ở nghề biển – đây phải cảm ơn Ông Trời đã tạo địa thế đặc biệt cho nước Việt – nên người Việt nói chung không sợ sóng. Có ghe thuyền trong tay là họ ra khơi không ngần ngại; mặc dù cũng đã có những cảnh vợ hoặc mẹ đứng mỏi mòn trông chờ chồng, con từ khơi trở về cách vô vọng!
Cũng qua nghề đi biển nên sau năm 1975, vì yêu chuộng tự do, vì muốn một cơ hội đổi đời nên người Việt đã “vượt biển” trội hẳn hơn “vượt biên”. Tính đến nay gần tròn nửa thế kỷ, số thuyền nhân của giữa thập niên 70 (thế kỷ trước) tìm tự do bằng ghe thuyền đã có cuộc sống thành đạt. Nhiều gia đình không rời bỏ nghề biển đã thành công vượt bực tại những tiểu bang giáp biển của Mỹ, của Úc.
Một trong những con thuyền vượt biển tìm tự do của "thuyền nhân"
Trong những năm đầu có phong trào “vượt biển” rất nhiều ngư dân vốn chẳng có vàng bạc trong tay đã được người giàu có bỏ tiền đóng tàu để thuê họ hoặc hợp tác tổ chức “vượt biển”. Có người kể rằng, có ngư dân được thuê nhưng không muốn ra khơi trong những ngày chiến sự mới ngưng đã bị “dí súng” bó buộc phải trực chỉ ra khơi.
Phải nói rằng, cuộc “vượt biển tìm tự do” của người Việt rất cam go. Thuyền nhỏ, sóng lớn; biển rộng mênh mông, xăng dầu và thực phẩm lại eo hẹp; trên thuyền chật ních người số có nghề đi biển chuyên nghiệp thì ít. Nhưng mọi người đã gắn bó với nhau; người nọ hy sinh cho người kia; chia sẻ phần ăn cho nhau để sống qua những ngày trên trời tủa nắng gắt; dưới biển sóng vỗ ầm ầm tưởng như đập nát con thuyền mỏng manh! Đó là chưa kể, có những thuyền bị hải tặc Thái, bị thổ phỉ Phi ngăn chặn, cướp đoạt và cưỡng hiếp. Đau khổ và nhọc nhằn… nhưng sức sống của thuyền nhân không hề tắt. Họ kiên gan, trì chí đến cùng… Tất cả sóng gió, người Việt đã vượt qua để đến được vùng đất tự do âu cũng là nhờ “bằng hữu cùng biển cả”.
Vợ bồng con chờ ngóng chồng về... cách vô vọng
Nhưng trong khi đó, ngư dân Việt Nam hiện đang sống trong nước ra sao; đó là điều mà người Việt nước ngoài muốn biết hoặc quan tâm.
Ngư dân Việt trong nước nay chẳng những là người đạp sóng ra khơi để mưu sinh mà còn là những người nơi tuyến đầu khẳng định chủ quyền biển của quốc gia Việt Nam; họ đôi khi phải va chạm với tàu của Trung Quốc, có lúc phải giằng co với tàu đánh cá phi Luật Tân.
Ngư dân mình trước đây ta tự gán cho cái nghề đánh bắt trên sông, trên biển của mình là công việc "hạ bạc". Ý nghĩa của 2 từ này được giải thích theo nhiều cách khác nhau nhưng chung quy là nói về một nghề thấp kém, bấp bênh. Măc dầu đa số vẫn chưa thoát ra được nỗi tự ti, mặc cảm về thân phận theo cách nghĩ ấy; nhưng một số đã làm chủ thuyền đánh cá tối tân. Mong rằng giới hữu trách địa phương nên chú tâm và công bằng nâng đỡ để để sống ngư dân thoát khỏi cảnh cơ cực và cũng nên quan tâm đến sự an toàn của họ khi biển động.
Gần tới ngày 30 tháng 4, nhớ lại mà thấy đoàn người Việt “vượt biển” quả thực cam đảm vô cùng, kham khổ vô biên và nay thành đạt vô lượng.
(Người Sydney)