Nhà thờ chính tòa Đức Bà Amiens (Cathédrale Notre-Dame d’Amiens) ở Pháp, một công trình kiến trúc Gothic được xây dựng vào năm 1220 - 1269. Từ hình ảnh có thể thấy các trụ chống tỳ giăng khắp ngoại vi của tòa nhà, giúp phân tán sức nặng của các bức tường theo kết cấu cơ học. (Jacques76250/Wikimedia Commons)
Lời mở đầu
Trong giai đoạn lịch sử ngày nay, văn hóa truyền thống đang trong quá trình từng bước khôi phục. Có không ít người cũng muốn góp phần vào việc phục hưng văn hóa nghệ thuật truyền thống. Tuy nhiên, vì văn hóa truyền thống xuất phát từ các tầng thiên thể khác nhau và có nhiều yếu tố mang tính chất khác nhau, nên việc nhận thức rõ về các nhánh và trường phái truyền thống khác nhau cũng như quá trình phát triển của chúng là hết sức cần thiết.
Nếu không, nó giống như đặt nước và lửa cạnh nhau, kết quả có thể là nước bị bốc hơi đến cạn kiệt, còn lửa bị giội đến dập tắt. Vốn dĩ đều là những thứ truyền thống, nhưng nếu tính chất của chúng khác nhau mà lại bị tùy ý trộn lẫn, pha trộn, nó có thể trở thành một thứ không có gốc rễ hoặc thậm chí là biến dị, trở nên bại hoại. Trên thực tế, trong quá trình thành-trụ-hoại-diệt, lịch sử phát triển từng bước của nhân loại cho đến ngày nay từ lâu đã chứng thực được điểm này.
Do phạm vi lịch sử nghệ thuật và lịch sử tư tưởng của nhân loại quá lớn, cũng như do giới hạn độ dài của bài viết cùng nhiều hạn chế khác, nên chỉ chọn một phần lịch sử để đàm luận. Người viết, trong tầm hiểu biết hữu hạn của mình, xin diễn giải một chút về sự suy thoái tư tưởng và tín ngưỡng của con người thông qua những biểu hiện của một giai đoạn lịch sử nghệ thuật. Kỳ thực là phao chuyên dẫn ngọc, chỉ mong có thể gợi ý vấn đề để thu hút mọi người vào cuộc tranh luận bổ ích. Hy vọng độc giả có thể nhìn lại một thời đã qua, lấy lịch sử làm gương, để tìm ra một chút khải thị từ lịch sử. Bài viết khó tránh khỏi thiếu sót, mong các bạn đọc rộng lòng thứ lỗi.
Quy luật
Nhìn vào không gian vũ trụ, ta thấy các thiên hà bao la xoay chuyển không ngừng như bánh xe. Là một ‘hạt’ (lạp tử, particle) trong dải Ngân hà, Trái đất nhỏ như một hạt bụi, nhưng đối với cư dân của hành tinh này, nó lại vô cùng rộng lớn, hơn nữa còn là nơi truyền tải mỗi một nền văn minh huy hoàng.
Cùng với sự quay vòng của Trái đất, lịch sử của loài người cũng từng bước luân chuyển: Các nền văn minh xuất hiện, hưng thịnh, bị hủy hoại, rồi đi đến diệt vong, các quốc gia cũng theo trình tự thành-trụ-hoại-diệt như vậy, nối tiếp là các nền văn minh mới, và các quốc gia mới thay thế những cái cũ... Quá trình này kết thành lịch sử mà chúng ta vẫn thường nói.
Vũ trụ có lịch sử của vũ trụ, thiên hà có lịch sử của thiên hà, nhưng điều mà mọi người bàn luận nhiều hơn cả chính là lịch sử của loài người. Khi bánh xe lịch sử xoay chuyển đến một giai đoạn nào đó sẽ xảy ra những chuyện không thể tránh khỏi. Có người cho rằng đây là ý Trời, cũng có người cho rằng đây là quy luật phát triển của xã hội. Bất luận thế nào, chuyện phải xảy ra thì sẽ xảy ra, nghệ thuật của con người cũng lại như vậy.
Xu hướng phát triển của nghệ thuật không bao giờ chuyển động trên một đường thẳng với tốc độ đồng đều mà dường như do ai đó sắp đặt. Ở vùng đất Châu Âu, các nghệ thuật gia từng không thể đạt được nhiều tiến bộ hoặc tạo ra những tác phẩm tuyệt đẹp trong hàng nghìn năm đằng đẵng, nhưng đột nhiên trong 180 năm của nửa thiên niên kỷ trước, họ đã tiến bộ vượt bậc về tài nghệ, và liên tiếp tạo ra những kiệt tác khiến người đời kinh ngạc, thán phục, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Họ đã viết nên một chương đáng chú ý trong lịch sử nhân loại.
Sự phát triển và biến hóa của lịch sử giống như sự chuyển động của các thiên thể và hành tinh. Việc Trái đất tự quay quanh trục và quay quanh Mặt trời cũng nói lên rằng, khái niệm thời gian ở đây khác với các hành tinh khác. Lịch sử cũng là đang từng bước diễn dịch trong thời gian đặc định này, bao gồm toàn bộ màn kịch quan trọng của thời kỳ Phục hưng.
Hoàn cảnh thành phố, thị trấn thời Trung cổ
Khoảng 1.000 năm (từ thế kỷ V đến cuối thế kỷ XV) trước thời kỳ Phục hưng, được các nhà sử học gọi là thời Trung cổ. Trước đây, nhiều học giả cho rằng đó là thời kỳ tăm tối, ngu dốt và mông muội, nhưng giới học thuật ngày nay về cơ bản đều biết rằng, cách nói này là vô lý. Trong thời đại chính quyền tan rã, đi kèm là các cuộc chiến tranh và loạn lạc triền miên, giáo hội dần trở thành tổ chức cốt lõi để an định lòng người, cứu tế dân chúng của xã hội Châu Âu. [Lưu ý: Bài viết này không tỏ bất kỳ thái độ nào về các tôn giáo hoặc văn hóa được nhắc tới, chỉ đơn giản là nhắc lại lịch sử và không nhắm vào bất kỳ trường phái tôn giáo nào.]
Những hành động thiện lương thường ngày trong dân chúng của các tu sĩ ngoan đạo, và hình tượng thanh cao luôn nghiêm khắc ước thúc bản thân của họ, dần dần đi vào lòng người, được dân chúng tán dương, tạo dựng được danh tiếng tốt để phổ biến đức tin Cơ đốc (Kitô).
So với ngày nay, xã hội lúc bấy giờ chắc chắn là sống thiên về tinh thần hơn. Mọi người xem trọng nơi trở về của linh hồn hơn là cuộc sống nơi thế tục. Truyền thống tôn giáo và văn hóa đã ước thúc tư tưởng của con người, và làm cho nó trở nên ổn định, giữ địa vị thống trị trong ý thức của quần chúng. Ý thức mạnh mẽ và đơn nhất này duy trì một cách hiệu quả các tiêu chuẩn đạo đức của con người. Ngược lại, bầu không khí hình thành trong sự thành kính, tin theo và thực hành các nghi lễ tôn giáo cũng làm củng cố và tăng cường ý thức này. Từ đó giữ gìn và duy trì sự cường thịnh của văn hóa Cơ đốc.
Ở thời Trung cổ, rất nhiều người hết lòng tin theo tôn giáo luôn tuân thủ nghiêm ngặt các quy phạm đạo đức, thường ngày kiềm chế ham muốn của bản thân, lấy đức báo oán, tịnh hóa tâm linh, kiên trì tham gia các hoạt động tôn giáo. Họ hy vọng linh hồn có thể lên Thiên đàng sau khi chết. Vì vậy nhà thờ giáo phận gắn bó mật thiết với đời sống của người dân.
Tôn giáo toàn dân có nghĩa là ngay cả trong các công việc thế tục cũng có thể thể hiện ra tác phong của người tu đạo. Nó cũng có nghĩa là các sự vụ trong tôn giáo và trong cuộc sống hàng ngày gắn bó mật thiết, chứ không phải tách biệt nghiêm ngặt như ngày nay. Tiếng chuông nhà thờ không chỉ gợi lên những lời cầu nguyện, lòng thành kính, hay đám cưới, đám tang, mà còn nhắc nhở mọi người về thời gian làm việc và nghỉ ngơi trong ngày. Ở một thị trấn hay thành phố, nhà thờ không chỉ là nơi tổ chức các nghi lễ tôn giáo mà còn là nơi tụ họp của người dân cả thị trấn hay thành phố đó.
Xét về tầm quan trọng của nhà thờ đối với công chúng, hình ảnh của nó cũng cần có tính thẩm mỹ nhất định để khơi dậy tình cảm tôn giáo của mọi người, và có vai trò giáo dục cảm hóa lòng người. Trong bối cảnh đó, một phong cách nghệ thuật đã thuận theo thời vận mà ra đời.
Nó khởi đầu từ thế kỷ XII và bắt nguồn từ vùng Ile-de-France với trung tâm là Paris, được người đời sau gọi là "Gothique" – kiến trúc Gothic Pháp. Trải qua vài thế kỷ phát triển và truyền bá sau đó, vào thế kỷ XV, nó đã được phổ biến rộng rãi ở vùng đất tương đương với vị trí địa lý của Pháp, Anh, Đức, miền bắc Tây Ban Nha và miền bắc nước Ý ngày nay. Kiến trúc Gothic ban đầu được phát triển từ các nhà thờ kiểu Pháp, sau khi dần trưởng thành, phong cách này còn được thể hiện trong kết cấu kiến trúc của một số lâu đài hay cung điện, nhưng phần lớn vẫn là phong cách chủ đạo của các công trình tôn giáo như nhà thờ chính tòa (Nhà thờ lớn của một giáo phận), đại tu viện và giáo đường, v.v.
Trên thực tế, sự xuất hiện và phát triển của nghệ thuật phương Tây đều khởi nguồn từ các Thánh đường và nhà thờ, nhất là trong thời đại toàn dân tín Chúa.
Khi kiến trúc Gothic không ngừng được hoàn thiện, về mặt cơ học, kết cấu mái vòm gân nhọn và khung đỡ tường (Flying buttresses) đã làm giảm gánh nặng cho các bức tường. Ngoài ra, kết cấu khung này còn tăng cường hỗ trợ cho phần đỉnh, cho phép nhà thờ có thể xây cao hơn và lớn hơn, càng thể hiện rõ vẻ bên ngoài hùng vĩ, và không gian rộng lớn bên trong tòa nhà. Trong vài thế kỷ đầu tiên, khi các công trình kiến trúc và nhà dân ở thành thị nhìn chung đều không cao, thì nhà thờ Gothic hiện ra với vẻ sừng sững cao vút tầng mây.
Công trình kiến trúc nghệ thuật tráng lệ này phối hợp với các trụ phức (Compound pier) cao và thẳng đứng, tạo nên một góc nhìn có chiều sâu hướng lên trên. Khi tầm mắt chạm đến phần đỉnh, không gian lại càng cao thêm do sự tiếp nối của mái vòm nhọn. Tổng thể công trình nghệ thuật không ngừng mở rộng về phía trên tạo ra một cảm giác không gian rộng lớn và cao vời, như muốn đến gần hơn với Thiên đường, phản ánh niềm khao khát và mong mỏi hướng về Thần và Thiên quốc của con người.
Bên trong Nhà thờ chính tòa Đức Bà Amiens, khung cấu trúc nghệ thuật tráng lệ của nhà thờ kiểu Gothic kết hợp với các cột trụ phức và mái vòm nhọn, về mặt thị giác tạo nên một cảm giác không gian cao và có chiều sâu. (Phạm vi công cộng)
Nếu như nói những ngôi nhà thấp và các công trình dân cư trong thành phố tạo thành các đường kẻ ngang, thì chiều cao của nhà thờ Gothic lại là đường kẻ dọc. Nếu đường kẻ ngang tượng trưng cho các hoạt động nơi thế gian được thực hiện ở tầng thứ con người, thì đường kẻ dọc lại ngụ ý về sự vượt khỏi tầng thứ ấy và tiến về nơi cao hơn. Các đường nét của kiến trúc Gothic không ngừng dẫn tầm mắt của con người hướng lên trên, là ý muốn nhắc nhở con người hãy nhìn về nơi Thiên thượng, chứ không phải nhân gian. Vẻ sừng sững cao vút tầng mây ấy cho thấy sức mạnh và hướng đi của sinh mệnh, là để nói cho con người biết đừng quên đề cao tâm tính để đạt được mục tiêu trở về Thiên quốc.
Một môi trường nghệ thuật phụ trợ cho việc tu luyện
Trong điều kiện ánh sáng tự nhiên, bên trong các tòa nhà theo phong cách Gothic thường sáng hơn so với các tòa nhà theo phong cách Romanesque (phong cách có trước Gothic). Nguyên nhân là vì các bức tường của cấu trúc Gothic cho phép tăng số lượng và diện tích cửa sổ để có được ánh sáng ban ngày tốt hơn. Đó cũng là lý do tại sao loại hình kiến trúc này lại là nơi phù hợp nhất cho các bức bích họa lớn kiểu Ý.
Con người thời đại đó cho rằng, Thượng Đế ban ánh sáng tràn ngập nơi thế gian, vì vậy ánh sáng mặt trời có thể được coi là tượng trưng cho hào quang của Thượng Đế. Khi ánh sáng rọi vào nhà thờ qua những ô cửa kính màu mang chủ đề thần thánh, nó tượng trưng cho sự hiển hiện của Thần linh, bởi vì các bức tranh kính màu thường mô tả câu chuyện về các vị Thần hoặc các vị Thánh đồ. Khi ấy ánh sáng vật lý trong thực tế được chuyển thành ánh sáng mang thuộc tính của Thần, có thể đóng vai trò trong việc giáo hóa nhân tâm. Đặc biệt là trong thời kỳ tỷ lệ người biết chữ thấp, việc truyền giáo cho quần chúng thông qua các bức tranh kính sáng lấp lánh trên cao đã trở thành một cách tất yếu.
Cửa sổ hoa hồng và Kính màu ghép ở cánh phía bắc Nhà thờ chính tòa Đức Bà Chartres được tài trợ bởi Blanca de Castilla, Vương hậu Pháp. (Wikimedia Commons/CC BY-SA 4.0)
Nghệ thuật cửa sổ kính màu thời kỳ đó cũng thể hiện được chức năng kể chuyện của hội họa. Thông qua việc miêu tả các câu chuyện trong Kinh Thánh, thần tích của các vị Thánh tông đồ, v.v. để nói cho con người biết đạo lý thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, người tu luyện viên mãn sẽ được lên Thiên đàng.
Ngoài vai trò truyền giáo cho quần chúng, loại nghệ thuật này còn có một năng lực khác: Vừa tạo ra một bầu không khí thị giác đặc biệt, kết hợp với cảm nhận sâu sắc về không gian của tòa nhà, tạo thành một không gian có thể khơi dậy cảm xúc tôn giáo của con người. Điều này đặc biệt quan trọng ở những nơi tôn giáo, nơi các tu sĩ tề tựu. Nó có thể thúc đẩy các tu sĩ nhanh chóng đi vào trạng thái trầm tư mặc tưởng (thiền định), nói cách khác, nó được sử dụng để giúp họ tu luyện.
Ảnh minh họa ánh sáng mặt trời rọi qua kính màu ghép vào nhà thờ. (Wikimedia Commons/CC BY-SA 4.0)
Là những tu sĩ dành trọn cuộc đời cho việc tu luyện, cuộc sống của họ rất giản đơn. Đặc biệt là trong xã hội cổ đại không có các loại hình giải trí hiện đại hóa công nghệ cao và bùng nổ thông tin như ngày nay, mọi người sống một cuộc sống đơn giản và bình yên. Theo chế độ tu viện thời đó, các tu sĩ cũng phải từ bỏ hết thảy lạc thú, dục vọng cá nhân, những thù lao vật chất, cuộc sống gia đình và những khía cạnh trần tục khác. Bởi vì những tu sĩ từ bỏ mọi ham muốn thế tục để theo đuổi một đời sống tinh thần cao hơn mức độ của tầng người thường. Trước thế kỷ XIII, điều này có yêu cầu cực kỳ nghiêm khắc.
Người bình thường trong xã hội hiện đại không cách nào có thể trải nghiệm trạng thái tinh thần của người xưa. Trong thế giới công nghệ cao, có biết bao loại thông tin, quan niệm và cám dỗ không lúc nào là không tràn ngập trong đại não của con người, khiến não người hầu như từng phút từng giây đều phải suy nghĩ về các chủng các loại sự việc, hoàn toàn không thể tĩnh tâm xuống được. Sẽ khá khó khăn nếu như yêu cầu một người hiện đại không nghĩ gì, không có bất kỳ suy nghĩ nào trong 15 phút đồng hồ khi đầu óc họ đang hoàn toàn thanh tỉnh.
Khác với những nhà thờ hiện đại tiếp nhận quảng đại quần chúng, đời sống tu hành trong các tu viện thời cổ là gần như biệt lập, cắt đứt mọi liên lạc với xã hội. Trạng thái này khiến tư tưởng của các tu sĩ thời đó vô cùng đơn nhất. Ở đó, những thứ thu vào mắt là ánh sáng thần thánh phát ra từ những bức tranh tôn giáo bằng kính màu khi nắng chiếu qua, thu vào tai là âm nhạc tôn giáo với những bài thánh ca hoặc bản xô-nát (sonata), có thể tạo ra một bầu không khí nghe nhìn toàn diện, rung động trong không gian rộng rãi của tòa kiến trúc.
Loại rung động mà các giác quan tiếp nhận được có thể khiến người tu luyện tập trung cao độ, một niệm thay vạn niệm, nhanh chóng loại bỏ tạp niệm (những suy nghĩ gây phân tán tư tưởng) khi cầu nguyện và mặc tưởng, dễ dàng đi vào trạng thái tập trung và nhập định tương tự như trong tu luyện phương Đông. Tương truyền, cách thức này có thể khiến thần thức của tu sĩ đi từ thế giới vật chất vào thế giới phi vật chất, đồng thời cảm nhận được ân huệ của Chúa trong không gian huyền diệu.
Một loại tranh khác thể hiện đầy đủ chức năng tường thuật của hội họa là tranh vẽ minh họa sách thủ bản (Manuscript: tài liệu được viết, chép bằng tay), nó đã phát triển mạnh trong nhiều thế kỷ. Paris có nhà in đầu tiên vào năm 1470 và trở thành trung tâm in ấn và xuất bản uy tín nhất ở Châu Âu chỉ trong vài thập kỷ. Tuy vậy, trong thời đại khi chưa có in ấn và ở những khu vực chưa được phổ cập kỹ thuật in ấn, sách vẫn được sao chép bằng tay. Nhiều cuốn sách chép tay mạ vàng đắt tiền được làm bằng kỹ thuật phức tạp thường được dùng làm Kinh Thánh hoặc sách cầu nguyện đặt trên bàn thờ.
Các bức tranh minh họa này kể về những câu chuyện tôn giáo và tiểu sử của các vị Thánh đồ. Chúng luôn được các họa sĩ lành nghề hoàn thiện một cách tỉ mỉ, nên có không ít họa sĩ là chuyên gia về những bức tranh thu nhỏ (Miniature). Do kích thước của cuốn sách rất hạn chế, người họa sĩ phải cực kỳ khéo léo trong việc khắc họa các vật thể để thể hiện chính xác hình dạng và hiệu ứng hình ảnh tương ứng.
Một trong những bức tiểu họa trong sách chép tay mạ vàng Les Très Riches Heures du duc de Berry: La Pentecôte. Bởi vì những người thời Trung cổ cầu nguyện vào một số thời điểm khác nhau trong ngày, những cuốn sách cầu nguyện như vậy được gọi là Livre d'heures (Sách cầu nguyện theo giờ). (Phạm vi công cộng)
Các thực hành tôn giáo như cầu nguyện hoặc tụng kinh trong thời Trung cổ có ý nghĩa vô cùng tích cực trong việc duy trì đạo đức của con người. Hãy tưởng tượng xem, thời đó mọi người đều phải đọc thuộc lòng những cụm từ có tiêu chuẩn đạo đức cao, chẳng hạn như "quý trọng dân chúng, không cầu báo đáp, khoan dung người khác"... vào những thời điểm khác nhau trong ngày. Theo thời gian, những nội dung này sẽ được dung hòa vào quan niệm của mọi người và trở thành quy tắc ứng xử chung.
So với môi trường thời đó, con người ngày nay thường xuyên đắm chìm trong các tác phẩm văn nghệ, phim ảnh, truyền hình, và các sản phẩm giải trí điện tử đầy rẫy những hình ảnh cháy nổ, giết chóc, cướp bóc, bạo lực, khiêu dâm và sắc tình. Rõ ràng là cuộc sống tràn đầy những lễ nghi đạo đức trước đây có ảnh hưởng tích cực hơn nhiều đối với tư tưởng con người.
Mặc dù họ có thể đạt đến cảnh giới cao thâm hay không vẫn phải phụ thuộc vào sự tu luyện của chính họ, hơn nữa trạng thái tương đối thuần chính đó cũng đã biến mất từ lâu vào cuối thời Trung cổ, nhưng các tín ngưỡng chính giáo thời đó vẫn duy trì mạnh mẽ trạng thái xã hội chung là nguyện ý hành thiện tích đức, mà những sách bản chép tay đó cũng có công lao không thể phai mờ.
Sự tham gia của những nhà tài trợ
Các tác phẩm quy mô lớn thời bấy giờ hầu như chỉ thấy trong các bức tranh bàn thờ (Altarpiece). Đây là một tác phẩm nghệ thuật như một bức tranh, tác phẩm điêu khắc hoặc phù điêu về chủ đề tôn giáo, được làm để đặt trên bàn thờ của nhà thờ. Vì bàn thờ là vị trí quan trọng nhất trong một nơi tôn giáo, sẽ có rất đông người hướng về cầu nguyện và chiêm bái nên tầm quan trọng của tác phẩm tranh bàn thờ là điều hiển nhiên.
Mặc dù có thể thấy từ sách cổ tôn giáo rằng các tín đồ không thờ bái tranh, nhưng cũng có không ít tài liệu lịch sử lưu truyền từ thời đó chỉ ra rằng, đương thời vẫn có nhiều tín đồ bị giáo hội chỉ trích là quá mê tín vào một số tác phẩm nghệ thuật như Thánh vật hoặc Thánh tượng…
Vì hình ảnh của Chúa hoặc các vị Thánh trong tranh sẽ in sâu vào tâm trí của những tín đồ sùng đạo, nên trong tiềm thức con người sẽ coi các bức hội họa ở đàn tế thờ là vật mang sự linh thiêng. Ý nghĩa của những tác phẩm đó vượt xa khái niệm về những tác phẩm nghệ thuật thông thường, do đó yêu cầu chất lượng tác phẩm cũng rất cao. Các nhân vật trong tranh phải phù hợp với mô tả đặc trưng trong Kinh Thánh, hình ảnh các Chúa và các vị Thánh phải rạng rỡ và hoàn hảo.
Trang trí bàn thờ ban đầu là do nhà thờ chế định, nhưng với sự phổ biến của tín ngưỡng Cơ đốc, rất nhiều người không theo tôn giáo và một số tổ chức dân sự cũng bắt đầu xây dựng nhà thờ kiểu nhỏ hoặc kiểu gia đình trong một số cung điện và tư dinh. Quyền bài trí bàn thờ cũng không còn là độc quyền của giáo hội. Nhiều nhà tài trợ hy vọng rằng mình có thể xuất hiện trên bức tranh được hàng nghìn người kính ngưỡng. Là một tín đồ thành kính lại được đứng bên cạnh các vị Thánh nhân trong bức tranh và lưu danh thiên cổ, đó lẽ nào không phải là một niềm vinh hạnh?
Sức mạnh của đồng tiền đã giúp điều ước nhỏ bé nhưng phi phàm này trở thành hiện thực. Cách làm này dần trở thành một tục lệ bất thành văn. Vì vậy, sự hiện diện của những người tài trợ trong các bức tranh đã trở thành một "truyền thống" từ cuối thời Trung cổ. Không chỉ giới hạn ở các bức trang trí bàn thờ, việc này cũng phổ biến trong tranh ghép kính màu ở các công trình tôn giáo.
Bức tranh “Đức Mẹ sầu bi Avignon” (Pietà de Villeneuve-lès-Avignon), tranh Tempera trên gỗ, kích thước 163 x 218 cm. Bức họa này được giới học thuật giám định là của họa sĩ người Pháp Enguerrand Quarton vẽ từ năm 1455 - 1460. Trong tranh, nhân vật ngoài cùng bên trái là nhà tài trợ cho tác phẩm này. (Tetraktys/Wikimedia Commons)
Hình ảnh Chúa và các vị Thánh trong tranh có thể được vẽ hoàn hảo nhất có thể, nhưng thủ pháp xử lý nghệ thuật hoàn hảo này không thể dùng cho những nhà tài trợ. Bởi vì một khi vẽ quá đẹp sẽ làm mất đi đặc điểm vốn có và không còn giống người đó nữa. Vì vậy, nhà tài trợ vẫn được vẽ giống hệt hình dạng của họ trong thực tế để dễ dàng nhận ra.
Tuy nhiên, hình ảnh những người đó cũng sẽ phản ánh một cách bị động vào trong tâm trí của những người tới cầu nguyện và tu hành khi họ đối diện với bàn thờ, khi đó yếu tố thần thánh trong bức tranh sẽ bị suy yếu và yếu tố thế tục chen vào tư tưởng của người tu hành.
Ví dụ, ở các tự viện hay nơi thờ Phật tại gia đình của Phật giáo Tây Tạng thường treo loại tranh vẽ tên là Thangka, trên đó vẽ hình ảnh chư Phật. Nếu một người tu luyện Mật tông hàng ngày ngồi thiền trước bức tranh Thangka được vẽ thêm một người giàu có trên đó, liệu người ấy có thể tu luyện không?
Một bức vẽ Thangka ở Tây Tạng. (Phạm vi Công cộng)
Cũng vậy, nó cũng làm khơi dậy ác cảm trong tâm những người dân bình thường có lòng tin vào tôn giáo, vì họ thấy rằng một người chỉ vì có tiền có thế là có thể đặt chân dung của mình vào các bức tranh thần thánh, để mỗi ngày mọi người phải chiêm ngưỡng với tấm lòng tôn kính. Hành vi này đã gieo mầm hậu họa cho việc duy trì tín ngưỡng tôn giáo về sau.
(ntdvn.net; Nam Phương - Theo Arnaud H. - The Epoch Times)