Trong những ngày cuối tháng 10, trận bão Melissa đã càn quét vùng Caribbean – khu vực thuộc châu Mỹ, nằm ở phía đông nam Vịnh Mexico, phía đông Trung Mỹ và phía bắc Nam Mỹ. Khu vực này tập trung quanh Biển Caribe và bao gồm nhiều hòn đảo - khiến ít nhất 20 người chết ở Haiti, tàn phá một phần Jamaica và Cuba. Giới chức Cuba cho hay khoảng 735,000 người phải sơ tán, chủ yếu ở các tỉnh Santiago de Cuba, Holguin và Guantanamo.

 

Riêng tại Jamaica, điều phối viên thường trú của Liên Hiệp Quốc Dennis Zulu nói với các phóng viên rằng siêu bão Melissa đã gây ra sự tàn phá nặng nề, chưa từng có về cơ sở hạ tầng, tài sản, đường sá, và kết nối mạng.

 

Cơn bão Melissa có tốc độ gió lên tới khoảng 290 km/giờ, được coi là cực kỳ mạnh với cấp độ 5. Tuy nhiên, vào sáng thứ Ba 28/10 mhiều cơn gió giật trên 338 km/giờ chỉ vài giờ trước khi đổ bộ vào Jamaica.

 

Giống như nhiều cơn bão gần đây ở lưu vực Đại Tây Dương, Melissa đã bùng phát từ một cơn bão nhiệt đới thành một cơn bão lớn chỉ trong vòng chưa đầy một ngày.

 

Các nhà dự báo thời tiết cho rằng cấp độ 5 có thể không mô tả đủ sức mạnh của gió tốc trong trận bão Melissa mà phải lập thêm cấp độ mới - cấp độ 6.

 

THANG ĐO CẤP ĐỘ CỦA BÃO CÓ TỪ KHI NÀO?

Nhân dịp này, tưởng cũng nên tìm hiểu việc lập cấp độ của bão diễn tiến ra sao và được khởi sự từ khi nào?

 

Năm 1971, thang đo này được phát triển bởi Herbert Saffir và nhà khí tượng học Robert Simp- son, người lúc đó là giám đốc Trung tâm Bão Quốc gia Hoa Kỳ (NHC).

 

Được biết, vào năm 1969 ông Herbert Saffir, một kỹ sư xây dựng, được Liên Hợp Quốc ủy nhiệm nghiên cứu nhà ở chi phí thấp ở những khu vực dễ bị bão. Năm 1971, trong khi tiến hành ng- hiên cứu, kỹ sư Saffir nhận ra rằng không có thang đo đơn giản nào để mô tả những tác động có thể xảy ra của một cơn bão. Bằng cách sử dụng các thang đo cường độ dựa trên thiệt hại chủ quan như thang đo cường độ Modified Mercalli hoặc thang đo cường độ MSK-64 và phương pháp phân cấp số khách quan của thang Richter làm mô hình, ông đã đề xuất một thang đo phân cấp đơn giản từ 1 đến 5 như một hướng dẫn cho các khu vực không có quy định xây dựng chống bão. Các cấp độ được dựa trên hai yếu tố chính: tốc độ gió giật khách quan duy trì trong 2–3 giây ở độ cao 9.2 mét, và mức độ thiệt hại cấu trúc chủ quan.

 

Thang đo sức gió bão Saffir-Simpson ước tính thiệt hại tài sản tiềm tàng. Mặc dù tất cả các cơn bão đều tạo ra gió đe dọa đến tính mạng, nhưng những cơn bão được xếp hạng từ cấp 3 trở lên được gọi là bão lớn - riêng ở phía tây Bắc Thái Bình Dương, thuật ngữ "siêu bão" được sử dụng cho các cơn bão nhiệt đới có sức gió duy trì vượt quá 240 km/giờ. Bão lớn có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến

thảm khốc về tài sản và tổn thất nhân mạng đáng kể chỉ do sức mạnh của gió. Bão ở tất cả các cấp đều có thể gây ra nước dâng do bão chết người, lũ lụt do mưa và lốc xoáy. Những mối nguy hiểm này đòi hỏi mọi người phải thực hiện các biện pháp bảo vệ, bao gồm cả việc sơ tán khỏi những khu vực dễ bị ảnh hưởng bởi nước dâng do bão.

 

Thang đo gió bão Saffir–Simpson  dựa  trên  tốc độ gió cao nhất được tính trung bình trong khoảng thời gian một phút ở độ cao 10 m so với mặt đất. Mặc dù thang đo hiển thị tốc độ gió trong các phạm vi tốc độ liên tục, nhưng Trung tâm Bão Quốc gia Hoa Kỳ và Trung tâm Bão Trung Thái Bình Dương phân loại cường độ bão nhiệt đới theo từng bước 5 hải lý/giờ (kn) (ví dụ: 100, 105, 110, 115 kn, v.v.) do sự không chắc chắn vốn có trong việc ước tính sức mạnh của bão nhiệt đới. Tốc độ gió tính bằng hải lý/giờ sau đó được chuyển đổi sang các đơn vị khác và làm tròn đến 5 km/giờ gần nhất.

 

Thang đo gió bão Saffir–Simpson chỉ được sử dụng chính thức để mô tả các cơn bão hình thành ở Đại Tây Dương và phía bắc Thái Bình Dương phía đông Đường đổi ngày quốc tế. Các khu vực khác sử dụng các thang đo khác nhau để phân loại các cơn bão này, được gọi là lốc xoáy, tùy thuộc vào khu vực. Các khu vực này (ngoại trừ JTWC - Joint Typhoon Warning Center (Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp), là một đơn vị chỉ huy chung của Hải quân và Không quân Hoa Kỳ đặt tại Trân Châu Cảng, Hawaii - chịu trách nhiệm đưa ra các cảnh báo về bão nhiệt đới ở khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương, Nam Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương) sử dụng tốc độ gió trung bình trong ba phút hoặc mười phút để xác định tốc độ gió duy trì tối đa, tạo ra sự khác biệt quan trọng gây khó khăn cho việc so sánh trực tiếp giữa tốc độ gió tối đa của các cơn bão được đo bằng thang đo gió bão Saffir–Simpson (thường mạnh hơn 14%) và những cơn bão được đo bằng khoảng thời gian mười phút (thường yếu hơn 12%).

 

Năm cấp độ của bão theo thang Saffir-Simpson được sắp xếp như sau.

 

Cấp độ 1:

  • Sức gió: 119-153 km/h

Gió rất nguy hiểm sẽ gây ra một số thiệt hại: Những ngôi nhà khung được xây dựng tốt có thể bị hư hại mái nhà, ngói lợp, ván ốp tường và máng xối. Các cành cây lớn sẽ bị gãy và những cây có rễ nông có thể bị đổ. Thiệt hại nghiêm trọng đối với đường dây điện và cột điện có thể dẫn đến mất điện kéo dài từ vài ngày đến vài tuần.

 

Cấp độ 2:

  • Sức gió: 154-177 km/h

Gió cực kỳ nguy hiểm sẽ gây ra thiệt hại nghiêm trọng: Những ngôi nhà khung được xây dựng tốt có thể bị hư hại nặng mái nhà và ván ốp tường. Nhiều cây có rễ nông sẽ bị gãy hoặc bật gốc và chặn nhiều tuyến đường. Dự kiến sẽ mất điện gần như hoàn toàn với thời gian mất điện kéo dài từ vài ngày đến vài tuần.

 

Cấp độ 3:

- Sức gió: 178-208 km/h Thiệt hại tàn khốc sẽ xảy ra:

Những ngôi nhà khung được xây dựng tốt có thể bị hư hại nặng hoặc bị phá hủy hoàn toàn mái nhà và các đầu hồi. Nhiều cây sẽ bị gãy hoặc bật gốc, chặn nhiều tuyến đường.  Điện và nước sẽ không có sẵn trong vài ngày đến vài tuần sau khi cơn bão đi qua.

 

Cấp độ 4:

- Sức gió: 209-251 km/h Thiệt hại thảm khốc sẽ xảy

ra: Những ngôi nhà khung được xây dựng tốt có thể bị hư hại nghiêm trọng với việc mất hầu hết cấu trúc mái nhà và/hoặc một số bức tường bên ngoài. Hầu hết cây cối sẽ bị gãy hoặc bật gốc và cột điện bị đổ. Cây đổ và cột điện bị đổ sẽ cô lập các khu dân cư. Mất điện sẽ kéo dài từ vài tuần đến có thể vài tháng. Hầu hết khu vực sẽ không thể ở được trong vài tuần hoặc vài tháng.

 

Cấp độ 5:

  • Sức gió: 252 km/h hoặc mạnh hơn

Thiệt hại thảm khốc sẽ xảy ra: Một tỷ lệ cao các ngôi nhà khung sẽ bị phá hủy, với sự sụp đổ hoàn toàn mái nhà và tường. Cây đổ và cột điện bị đổ sẽ cô lập các khu dân cư. Mất điện sẽ kéo dài từ vài tuần đến có thể vài tháng. Hầu hết khu vực sẽ không thể ở được trong vài tuần hoặc vài tháng.

 

CÓ NÊN THÊM CẤP ĐỘ 6

VÀO THANG ĐO SAFFIR-SIMPSON?

Năm 1991, chuyên gia thời tiết nhiệt đới Debi Iacovelli đã hỏi thẳng Kỹ sư Simpson rằng liệu ông có nghĩ nên thêm một cấp độ mới vào thang đo mở rộng của mình hay không.

 

Ông nói: "Tôi nghĩ rằng việc gió mạnh hơn 251 km/giờ sẽ xảy ra như thế nào là điều không quan trọng. Đó là lý do tại sao chúng tôi không cố gắng nâng cấp độ lên cao hơn nữa."

 

Cơn bão mạnh nhất ở Đại Tây Dương và Thái Bình Dương là cơn bão nào?

 

Bão Allen năm 1980 đạt tốc độ gió duy trì tối đa 305 km/giờ. Cơn bão "Ngày Lao động" năm 1935, bão Gilbert năm 1988, bão Dorian năm 2019 và bão Wilma năm 2005 đều đạt tốc độ gió duy trì tối đa 297 km/giờ.

 

Bão Mitch (1998), Rita (2005) và Irma (2017) đều đạt 289 km/giờ. Bão Milton năm ngoái cũng vậy.

 

Cơn bão mạnh nhất Thái Bình Dương từng được ghi nhận là bão Patricia, đạt tốc độ gió cực đại 345 km/giờ) vào ngày 23 tháng 10 năm 2015. Nó được công nhận là cơn bão mạnh nhất từng được ghi nhận ở Tây bán cầu, với sức gió duy  trì 345 km/giờ, trở thành cơn bão nhiệt đới mạnh nhất ở phía Đông Thái Bình Dương.

 

Ghi chú:

Bão nhiệt đới là một hệ thống áp thấp có tổ chức, hình thành trên vùng biển nhiệt đới ấm áp. Những cơn bão này được đặc trưng bởi tốc độ gió duy trì tối đa từ 63 đến 118 km/giờ. Chúng thường phát sinh ở các khu vực nằm giữa vĩ độ 5° và 30° và cần vùng nước biển ấm (ít nhất 26.5°C) để hình thành. ª

 

 

R. N. (Viết riêng cho Dân Việt News)