Bài Viết Độc Quyền Báo Dân Việt

 

 

 

 

 

Tục ngữ . . .

 

 

Chữ Việt trở nên “lắt léo” một phần cũng là việc làm sao hiểu cho được ý nghĩa cách chính xác của câu tục ngữ vốn chỉ là một câu nói ngắn gọn có vần hoặc không có vần, có nhịp điệu hoặc không có nhịp điệu, đúc kết qua các kinh nghiệm trong đời sống hằng ngày bao gồm mọi khía cạnh như giao tiếp, làm việc; thậm chí ngay cả đến cãi cọ, ghét bỏ, thù oán…

 

Bà mẹ thấy con mình siêng năng học tập nhưng lại không đủ điểm vào đại học, vội an ủi con bằng câu tục ngữ “học tài, thi phận”. Nếu không ai cắt nghĩa rạch ròi, người ngoại quốc (hoặc người Việt chào đời tại nước ngoài) muốn hiểu cho thấu đáo khi học tiếng Việt đều thốt lên “Rất khó hiểu”.

 

“Tôi yêu tiếng dân tôi” xin “khai bút” qua bài viết tìm hiểu về nguồn gốc, nội dung và đặc điểm thi pháp của tục ngữ.

 

Tục ngữ là gì?

Có nhiều ý kiến đưa ra định nghĩa của tục ngữ. Người thì cho rằng đấy là sáng tác ngắn gọc của dân gian ghi nhận qua trải nghiệm trong sinh hoạt hàng ngày. Người khác lại quan niệm tục ngữ là một kết tinh về kinh nghiệm đời sống, kinh nghiệm xã hội và ghi nhận lịch sử của dân Việt.

 

Giáo sư Dương Quảng Hàm trong bộ sách Việt Nam Văn học sử cho rằng “Một câu tục ngữ tự nó phải có một ý nghĩa đầy đủ, hoặc khuyên răn hoặc chỉ bảo điều gì”; trong khi Vũ Ngọc Phan, tác giả của “Tục ngữ ca dao dân ca” định nghĩa “Tục ngữ là một câu tự nó diễn trọn một ý, một nhận xét, một luân lý, một công lý, có khi là một sự phê phán”.

 

Theo ông Trần Hoàng, thuộc Đại học Huế, tục ngữ là một loại sáng tác dân gian - một loại câu nói ngắn gọn, có cấu trúc tương đối bền vững và thường có vần, nhịp được dùng trong lời nói, trong sinh hoạt hàng ngày của dân chúng.

 

Bên cạnh tục ngữ lại còn thành ngữ. Hai cụm từ này đôi khi bị “xóa nhà biên giới” mà thực sự tục ngữ và thành ngữ mang ý nghĩa khác nhau. Thí dụ “Rồng đến nhà tôm”, đó là một câu thành ngữ; nhưng “Mấy đời rồng đến nhà tôm” thì lại là câu tục ngữ. Để hiểu thêm thế nào là câu thành ngữ, chúng ta đọc qua một số câu đứng độc lập sau đây được coi là thành ngữ: Thuận buồm xuôi gió, Chén chú chén anh; Lên thác xuống ghềnh; Mày tao chi tớ. Những đem bốn câu độc lập này kết hợp với nhau thành một câu thì nó trở nên một câu tục ngữ: Thuận buồm xuôi gióc thì chén chú chén anh; còn khi lên thác xuống ghềnh là mày tao chi tớ.

 

Xem như vậy, về hình thành ngữ thể hiện một cụm từ cố định, còn tục ngữ thể hiện bằng câu.

 

Về nội dung, thành ngữ thể hiện khái niệm hay mô tả sự kiện trong khi tục ngữ thể hiện một phán đoán bao gồm khuyên răn, dạy bảo hay chê trách.

 

Nguồn gốc tục ngữ Theo nội dung biểu hiện trong câu tục ngữ, có thể nói rằng tục ngữ xuất phát từ ba nguồn gốc.

 

Đầu tiên, tục ngữ hình thành từ sự từng trải trong cuộc sống thực tiễn. Thí dụ:

- Ăn kỷ no lâu, cày sâu tốt lúa

- Con trâu là đầu cơ nghiệp

- Làm ruộng có năm chăn tằm có lúc

- Tháng bảy heo may chuồn chuồn bay thì bão

- Được mùa lúa uá mùa cau, được mùa cau đau mùa lúa

- Ăn một miếng tiếng một đời

- Của như non ăn mòn cũng hết

- Bà con vì tổ vì tiên, không ai bà con vì tiền vì gạo

- Trẻ cậy cha già cậy con

- Măng không uốn, uốn tre sao được

- Miếng ngon nhớ lâu, lời đau nhớ đời

- Trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã tường……

 

Thứ hai, rút ra từ các sáng tác dân gian - thường là tựa đề của câu chuyện kể. Thí dụ:

- Cái kiến mày kiện củ khoai

- Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng

- Tham thì thâm

- Cứu vật, vật trả ơn; cứu người, người trả oán

- Của thiên trả địa

- Bụng làm dạ chịu

- Nợ như chúa chổm

- Cha mẹ nuôi con biển trời lai láng, con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày

- Sự giàu mang đến dửng dưng, lọ là con mắt tráo trưng mới giàu

- Con vợ khôn lấy thằng chồng dại, như bông hoa lài cắm bãi cứt trâu

- To đầu mà dại bé dái mà khôn

- Nói dối như cuội….

 

Thứ ba, tục ngữ hình thành do con đường dân gian hóa những lời hay ý đẹp rút ra từ các tác phẩm văn học viết, những điển tích, điển cố; những lời nói bất hủ của các nhà tư tưởng, văn hóa, các nhà hoạt động nổi tiếng của các thời đại. Chẳng hạn như:

- Có tài mà cậy chi tài, chữ tài liền với chữ tai một vần

- Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

- Ngày vui ngắn chẳng tày gang

- Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau …

(Nguyễn Du);

 

- Còn bạc còn tiền còn đệ tử,

hết cơm hết rượu hết ông tôi

(Nguyễn Bỉnh Khiêm);

 

- Ôn cố nhi tri tân

- Nhân chi sơ tính bổn thiện,

- Lương y như từ mẫu

- Thời giờ là vàng bạc (Time is money)…

 

 

Nói về bản chất thể loại của tục ngữ, các nhà nghiên cứu văn học cho rằng tục ngữ là một hiện tượng ngôn ngữ đặc biệt theo nghĩa cạnh bộc lộ. Nhưng nhìn dưới khía cạnh xã hội, tục ngữ là nhận thức của dân gian về cuộc sống thực tế; còn về nghệ thuật, xem đó như một dạng văn học miêu tả kinh nghiệm của người dân từng trải (theo Cao Huy Đỉnh).

 

Ở góc độ ngôn ngữ, tục ngữ là một hiện tượng ngôn ngữ đặc biệt: một cấu trúc ngôn ngữ hoàn chỉnh, hàm súc, ngắn gọn …

 

Ở góc độ xã hội, tục ngữ là một hiện tượng ý thức xã hội, là tư tưởng nằm trong hệ thống quan niệm của người xưa về cuộc sống.

 

Ở góc độ nghệ thuật, tục ngữ là một đơn vị thông báo có tính nghệ thuật, là một dạng văn học đặc biệt - “văn học đúc kết kinh nghiệm”.

(Cao Huy Đỉnh).

 

 

Tục ngữ VN có một nội dung phong phú đó cũng là do nước ta vốn là một đất nước nông nghiệp. Trong công việc đồng áng, ruộng vườn, nương rẫy, người dân Việt cùng nhau gia tăng sản xuất. Đầu tội trời, chân đạp đất, dân ta phải cần cù làm việc đạt đủ lương thực cung cấp khắp nơi trên cả nước.

 

Trong mọi hoàn cảnh nắng mưa, giông bão; trong lúc vui mừng được mủa, trong lúc lo âu thiếu hụt... họ "buột" miệng nói ra một câu... từ đó lan rộng ra... người này "gọt giũa", người kia "thêm thắt" cho đến khi một câu đươc nhiều tâm đắc vậy là thành một câu tục ngữ để truyền tải cho nhau kinh nghiệm trong đời sống lao tác.

 

Đó là tục ngữ được duy trì đời đời, một kho kho tàng văn chương bình dân vô giá của dân tộc Việt.

 

(Viết theo Trần Tùng Chinh - Văn học Dân  gian Việt Nam)

 

 

 

(Danviet News)