Nhân viên làm việc tại dây chuyền lắp ráp của nhà máy Wuling Motors ở Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông, miền đông Trung Quốc, vào ngày 1/3/2023. (Ảnh: STR/AFP qua Getty Images)
Bởi vì xu hướng chuyển lợi nhuận đi này củng cố các bằng chứng khác cho thấy các doanh nghiệp phương Tây và Nhật Bản đang xem xét lại sự hiện diện của họ ở Trung Quốc, triển vọng của nền kinh tế Trung Quốc thậm chí còn đáng lo ngại hơn trước.
Bài bình luận
Nền kinh tế vốn đã khó khăn của Trung Quốc đang đối mặt với một trở ngại nữa: các công ty nước ngoài đang rút lợi nhuận của họ ra khỏi đất nước. Các công ty Mỹ, Nhật Bản và châu Âu - một số đã hoạt động từ lâu ở Trung Quốc - đang xem xét lại các kế hoạch trước đây nhằm hiện đại hóa và mở rộng và bắt đầu chuyển lợi nhuận của mình về nước hoặc những nơi khác ở châu Á và thậm chí xa hơn.
Xu hướng này đã phát triển được một thời gian. Nguyên nhân của nó rất đa dạng, một số cấp bách, một số cơ bản hơn, nhưng dù thế nào đi nữa, sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc dường như thậm chí còn gặp nhiều vấn đề hơn vì xu hướng này.
Dòng tiền chảy ra đã tăng dần trong hơn một năm. Trong 18 tháng tính đến tháng 9, tháng gần đây nhất có dữ liệu, các công ty nước ngoài đã rút tổng cộng 160 tỷ USD lợi nhuận ra khỏi đất nước. Số tiền rút vốn chỉ trong quý mùa hè lớn đến mức áp đảo dòng vốn đầu tư nước ngoài, đến mức lần đầu tiên sau một thời gian rất dài, Trung Quốc phải hứng chịu một dòng vốn nước ngoài chảy ra ròng - lên tới 11,8 tỷ USD. Khó có thể nghi ngờ việc những dòng thất thoát vốn đáng kể này đã góp phần khiến đồng CNY (nhân dân tệ) của Trung Quốc phải chịu sự sụt giảm gần 6% so với đồng USD trong năm nay.
Một phần của xu hướng này này phản ánh ảnh hưởng mang tính tạm thời của lãi suất tương đối. Trong khi Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc cắt giảm lãi suất trong nỗ lực khuyến khích chi tiêu tiêu dùng và đầu tư vốn thì Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã tăng lãi suất như một phần trong chính sách chống lạm phát của họ. Ngân hàng Anh, Ngân hàng Canada và Cục Dự trữ Liên bang Úc cũng đã tăng lãi suất. Để có được lợi tức tốt nhất từ lợi nhuận giữ lại trước khi triển khai chúng trên cơ sở lâu dài hơn, các nhà quản lý doanh nghiệp đương nhiên gửi tiền đến những nơi mà họ có thể nhận được mức lãi suất cao nhất.
Nếu đây là toàn bộ câu chuyện thì dòng vốn rút ra trong năm rưỡi qua sẽ dễ dàng bị coi là điều gì đó sẽ đảo ngược khi các điều kiện tài chính thay đổi, và chắc chắn chúng sẽ như vậy. Nhưng dòng vốn cũng phản ánh những ảnh hưởng cơ bản và lâu dài hơn. Một là sự suy yếu của nền kinh tế Trung Quốc. Xuất khẩu, vốn vẫn quan trọng đối với tăng trưởng của Trung Quốc, đã giảm, trong khi hoạt động công nghiệp chậm lại và gần đây có dấu hiệu về sự suy giảm hoàn toàn. Thất bại của các nhà phát triển bất động sản, chẳng hạn như Evergrande và Country Garden, đã lấy đi những tác động tích cực của hoạt động xây dựng nhà ở, thứ mà trong nhiều năm đã giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Trung Quốc.
Điều cũng làm nản lòng các nhà quản lý doanh nghiệp nước ngoài là sự kém hiệu quả của một số bước mà Bắc Kinh thực hiện gần đây nhằm đưa nền kinh tế trở lại con đường tăng trưởng chấp nhận được. Rất ít người nói về một sự thu hẹp kinh tế hoàn toàn. Tuy nhiên, tình hình vẫn khiến các nhà quản lý doanh nghiệp nhìn nhận rằng việc triển khai lợi nhuận của họ – kể cả phần lợi nhuận từ hoạt động ở Trung Quốc – ở nơi khác là tốt hơn.
Tuy nhiên, điều đáng lo ngại hơn đối với các nhà quản lý doanh nghiệp là căng thẳng ngoại giao và thương mại ngày càng tăng giữa Trung Quốc và phương Tây. Washington đã chặn việc bán một số công nghệ nhất định cho Trung Quốc và cũng cấm người Mỹ đầu tư vào các dự án công nghệ của Trung Quốc. Bắc Kinh đã phản ứng bằng cách ngăn chặn việc xuất khẩu các nguyên liệu quan trọng sang phương Tây và Nhật Bản. Đối với các công ty nước ngoài hoạt động tại Trung Quốc, những chính sách kém thân thiện này – ngay cả khi không hề gần với xung đột công khai – làm tăng thêm những sự không chắc chắn và rủi ro, đồng thời khiến Trung Quốc trở thành một nơi kém hấp dẫn hơn để kinh doanh. Chắc chắn, chúng thúc đẩy việc suy nghĩ lại về kế hoạch mở rộng kinh doanh.
Nếu những cân nhắc này không đủ để thay đổi tư duy và thực tiễn kinh doanh, thì sự hiếu chiến ngày càng gia tăng của Bắc Kinh đối với Đài Loan và việc tăng cường giám sát các công ty nước ngoài hoạt động tại Trung Quốc cũng đã khiến nhiều người lo lắng. Chỉ trong vài tháng qua, chính quyền Trung Quốc đã đột kích hai công ty Mỹ hoạt động tại Thượng Hải là Bain & Co. và Mintz. Các nhà chức trách này đã bắt giữ một số nhân viên của Mintz và phạt công ty.
Văn phòng đóng cửa của Tập đoàn Mintz được nhìn thấy trong một tòa nhà văn phòng ở Bắc Kinh vào ngày 24/3/2023. (Ảnh: Greg Baker/AFP/Getty Images)
Ngoài những gì đang xảy ra ở Trung Quốc và với thương mại Trung Quốc, những mối đe dọa không trực tiếp này tạo ra nhiều lý do để người Mỹ, người châu Âu và người Nhật cân nhắc việc rút lui khi còn có thể. Tình hình chắc chắn gay gắt chống lại bất kỳ sự mở rộng sự hiện diện nào của họ ở Trung Quốc.
Bởi vì những xu hướng về lợi nhuận này củng cố các bằng chứng khác cho thấy các doanh nghiệp phương Tây và Nhật Bản đang xem xét lại sự hiện diện của họ ở Trung Quốc, triển vọng của nền kinh tế Trung Quốc thậm chí còn đáng lo ngại hơn trước. Để cố gắng xoay chuyển tình thế, nhà lãnh đạo Tập Cận Bình đang có một công việc khó khăn. Không dễ để ông ấy có thể đưa ra một thủ đoạn nào đó trong trong tương lai gần.
Bài viết chỉ phản ánh quan điểm của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của NTD Việt Nam.
(Theo The Epoch Times)
(ntdvn.net - Bảo Nguyên biên dịch)
Milton Ezrati
Tác giả Milton Ezrati là biên tập viên của The National Interest - một chi nhánh của Trung tâm Nghiên cứu Nguồn Nhân lực tại Đại học Buffalo (SUNY), và là nhà kinh tế trưởng của Vested - công ty truyền thông có trụ sở tại New York. Trước khi gia nhập Vested, ông từng là nhà chiến lược thị trường và nhà kinh tế trưởng cho Lord, Abbett & Co. Ông thường xuyên viết bài cho City Journal và viết blog cho Forbes. Cuốn sách mới nhất của ông có tựa đề "Thirty Tomorrows: The Next Three Decades of Globalization, Demographics, and How We Will Live" (30 mươi năm sau: Ba thập kỷ tiếp theo của toàn cầu hóa, nhân khẩu học, và cách chúng ta sẽ sinh sống).