(Xem lại phần đầu)

 

 

HÀNG RÀO THẤP HƠN, DÂY CHẮC CHẮN HƠN

 

Cho đến nay, Mỹ đã đối phó với thách thức dư thừa công suất của Trung Quốc bằng cách áp đặt mức thuế cao đối với các sản phẩm năng lượng sạch của Trung Quốc, như pin mặt trời, xe điện, và pin. Đồng thời, thông qua Đạo luật Giảm lạm phát năm 2022, chính quyền Biden đã rót hàng tỷ USD vào việc xây dựng năng lực nội địa của Mỹ cho các lĩnh vực tương tự. Tuy nhiên, Mỹ nên cảnh giác với việc cố gắng cô lập Trung Quốc chỉ bằng cách xây dựng các rào cản thương mại và tăng cường cơ sở công nghiệp của chính mình.

 

Bằng cách đưa ra những ưu đãi lớn cho các công ty đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng ở Mỹ, Washington có thể gặp phải một số vấn đề tương tự như những gì đang gây khó khăn cho nền kinh tế Trung Quốc: sự phụ thuộc vào đầu tư dựa vào nợ, phân bổ nguồn lực không hiệu quả, và khả năng bong bóng đầu cơ vào cổ phiếu của công ty công nghệ có thể gây bất ổn cho thị trường nếu nó đột ngột phát nổ. Nếu như mục tiêu là vượt qua Bắc Kinh, Washington nên tập trung vào những gì hệ thống của Mỹ vốn đã giỏi hơn: đổi mới, gián đoạn thị trường, và sử dụng vốn tư nhân, trong đó các nhà đầu tư lựa chọn những lĩnh vực hứa hẹn nhất để hỗ trợ và chấp nhận rủi ro cùng với phần thưởng. Bằng cách tập trung vào các chiến lược nhằm hạn chế lợi thế kinh tế của Trung Quốc, Mỹ có nguy cơ bỏ qua sức mạnh của chính mình.

 

 

Một con tàu vận chuyển xe điện của Trung Quốc trên eo biển Bosphorus, gần Istanbul, tháng 4/2023. © Yoruk Isik / Reuters

 

 

Các chuyên gia hoạch định chính sách Mỹ cũng cần nhận ra rằng vấn đề dư thừa công suất của Trung Quốc đang trở nên trầm trọng hơn do Bắc Kinh theo đuổi mục tiêu tự cung tự cấp. Nỗ lực này, được chú trọng nhiều trong những năm gần đây, phản ánh sự bất an của Tập và mong muốn của ông nhằm giảm bớt những điểm yếu chiến lược của Trung Quốc trong bối cảnh căng thẳng kinh tế và địa chính trị ngày càng gia tăng với Mỹ và phương Tây. Trên thực tế, những nỗ lực của Tập nhằm huy động nhân lực và vật lực của đất nước mình để xây dựng một bức tường công nghệ và tài chính xung quanh Trung Quốc cũng có những hậu quả đáng kể. Một Trung Quốc ngày càng bị cắt đứt khỏi các thị trường phương Tây sẽ chẳng có gì để mất trong một cuộc đối đầu tiềm tàng với phương Tây – và do đó, sẽ có ít động lực để xuống thang căng thẳng hơn. Chừng nào Trung Quốc còn ràng buộc chặt chẽ với Mỹ và Âu Châu thông qua hoạt động buôn bán hàng hóa có giá trị cao vốn không dễ thay thế, thì phương Tây sẽ có thể ngăn chặn nước này thực hiện các hành động gây bất ổn một cách hiệu quả hơn nhiều. Trung Quốc và Mỹ là đối thủ cạnh tranh chiến lược, không phải kẻ thù; tuy nhiên, khi nói đến quan hệ thương mại Mỹ-Trung, người xưa có một câu nói khôn ngoan “Hãy giữ bạn bè ở gần và giữ kẻ thù ở gần hơn.”

 

Chính phủ Mỹ nên ngăn cản Bắc Kinh xây dựng một bức tường có thể chống lại các lệnh trừng phạt đối với nền kinh tế Trung Quốc. Để đạt được mục tiêu này, chính quyền Mỹ tiếp theo nên thúc đẩy các liên minh, khôi phục các thể chế đa phương đã bị phá hoại, và tạo ra các cấu trúc phụ thuộc lẫn nhau mới, khiến cho sự cô lập và tự cung tự cấp không những không hấp dẫn đối với Trung Quốc, mà còn không thể đạt được. Điểm xuất phát lý tưởng là xây dựng nhiều chính sách hơn trên bàn đàm phán, thay vì chỉ áp đặt thuế quan. Tiến hành chiến tranh thương mại trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị sẽ làm tăng thêm sự thiếu hụt niềm tin vào nền kinh tế Trung Quốc và dẫn đến sự mất giá của đồng nhân dân tệ, theo đó bù đắp một phần tác động của thuế quan.

 

Trung Quốc cũng có thể linh hoạt hơn trong chính sách thương mại của mình. Kể từ khi chiến tranh thương mại Mỹ-Trung leo thang, năm 2018, các học giả và quan chức Trung Quốc đã xem xét một số lựa chọn chính sách, bao gồm áp đặt các hạn chế xuất cảng tự nguyện, định giá lại đồng nhân dân tệ, thúc đẩy tiêu dùng nội địa, mở rộng đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư vào nghiên cứu và phát triển. Các học giả Trung Quốc cũng đã xem xét mối quan hệ thương mại của Nhật Bản với Mỹ trong thập niên 1980, chỉ ra rằng căng thẳng thương mại đã buộc các ngành công nghiệp trưởng thành của Nhật Bản, như sản xuất xe hơi, phải nâng cấp và trở nên cạnh tranh hơn với các đối thủ phương Tây, một cách tiếp cận có thể chứa đựng bài học cho ngành xe điện Trung Quốc.

 

Ngoài các hạn chế xuất cảng tự nguyện, Bắc Kinh đã thử một vài giải pháp kể trên ở một mức độ nào đó. Nếu chính phủ cũng thực hiện các biện pháp kiểm soát xuất cảng tự nguyện, họ có thể bắn một mũi tên trúng nhiều đích: một động thái như vậy sẽ làm giảm thương mại và thậm chí có thể làm giảm căng thẳng chính trị với Mỹ; nó sẽ buộc các ngành công nghiệp trưởng thành phải củng cố và trở nên bền vững hơn; và nó sẽ giúp chuyển năng lực sản xuất ra nước ngoài để phục vụ trực tiếp các thị trường mục tiêu.

 

Cho đến nay, chính quyền Biden đã lựa chọn một cách tiếp cận phân mảnh đối với Trung Quốc, giải quyết từng vấn đề một và tập trung đàm phán vào các chủ đề riêng lẻ. Ngược lại, chính phủ Trung Quốc thích một cách tiếp cận khác, trong đó không có vấn đề nào bị loại khỏi bàn đàm phán, và những nhượng bộ trong một lĩnh vực có thể được đánh đổi để lấy lợi ích ở lĩnh vực khác, ngay cả khi các vấn đề đó không liên quan đến nhau. Do đó, Dù Bắc Kinh có vẻ ngoan cố trong các cuộc đàm phán riêng lẻ, nhưng họ có thể dễ dàng chấp nhận một thỏa thuận toàn diện hơn, nhằm giải quyết đồng thời nhiều khía cạnh của quan hệ Mỹ-Trung. Washington nên tiếp tục cởi mở với khả năng xảy ra một mặc cả lớn như vậy, và nhận ra rằng nếu các động lực thay đổi, ban lãnh đạo Trung Quốc có thể thay đổi chiến thuật một cách đột ngột, giống như khi họ đột ngột chấm dứt chính sách zero COVID.

 

Washington cũng nên xem xét tận dụng các tổ chức đa phương như Tổ chức Thương mại Thế giới để tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc đàm phán với Bắc Kinh. Chẳng hạn, Trung Quốc có thể đồng ý tự nguyện từ bỏ quy chế quốc gia đang phát triển tại WTO, trong đó trao cho các quốc gia được chỉ định sự ưu đãi trong một số tranh chấp thương mại. Họ cũng có thể bị thuyết phục để ủng hộ một khuôn khổ WTO sửa đổi nhằm xác định tình trạng nền kinh tế phi thị trường của một quốc gia – một cách gọi được Mỹ và EU sử dụng để áp đặt mức thuế chống bán phá giá cao hơn đối với Trung Quốc – trên cơ sở từng ngành thay vì toàn bộ nền kinh tế. Những bước đi như vậy sẽ thừa nhận thành công kinh tế của Trung Quốc, và buộc nước này tuân thủ các tiêu chuẩn thương mại cao hơn của các nước công nghiệp phát triển tiên tiến.

 

Tập tự xem mình là một nhà lãnh đạo đem đến sự biến đổi, thường muốn được so sánh với Chủ tịch Mao. Điều này đã thể hiện rõ khi ông chính thức tiếp đón cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger – một trong số ít những người Mỹ được kính trọng rộng rãi ở đất nước Trung Quốc của Tập – vào tháng 7/2023, chỉ bốn tháng trước khi Kissinger qua đời. Tập tin rằng với tư cách là một cường quốc, đất nước của ông không nên bị hạn chế bởi các cuộc đàm phán hoặc áp lực từ bên ngoài, nhưng ông có thể sẵn sàng chấp nhận những điều chỉnh tự nguyện về các vấn đề thương mại như một phần của thỏa thuận rộng hơn. Nhiều thành viên trong giới tinh hoa nghề nghiệp và kinh doanh của Trung Quốc đang cảm thấy tuyệt vọng về tình trạng quan hệ với Mỹ. Họ biết rằng Trung Quốc sẽ được hưởng lợi nhiều hơn nếu hội nhập vào hệ thống toàn cầu do phương Tây lãnh đạo, hơn là bị loại khỏi hệ thống đó. Nhưng nếu Washington đi theo con đường hiện tại và tiếp tục tiến tới một cuộc thương chiến, điều đó có thể vô tình khiến Bắc Kinh tăng cường các chính sách công nghiệp vốn đã gây ra tình trạng dư thừa công suất ngay từ đầu. Về lâu dài, điều này sẽ có hại cho phương Tây cũng như cho Trung Quốc.

 

 

Zongyuan Zoe Liu là nghiên cứu viên về Trung Quốc tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại và là tác giả cuốn sách “Sovereign Funds: How the Communist Party of China Finances Its Global Ambitions.”

 

(nghiencuuquocte.org)