Một người lính Ấn Độ sử dụng ống nhòm để canh gác gần Đường kiểm soát (LoC) giữa Pakistan và Ấn Độ, tại khu vực Poonch thuộc vùng Jammu của Ấn Độ, vào ngày 20 tháng Năm. Mukesh Gupta/AFP/Getty Images

Nguồn: Chietigj Bajpaee, “Can India Continue to Rise Without Its Region?”, Foreign Policy, 20/10/2025

 

Biên dịch: Viên Đăng Huy (nghiencuuquoctel.org)

 

 

Tình hình Nam Á gần đây đang cho thấy những điểm tương đồng đến lạ lùng. Phong trào biểu tình do Thế hệ Z dẫn dắt đã lật đổ Thủ tướng K.P. Sharma Oli ở Nepal vào tháng Chín phảng phất hình ảnh của cái gọi là “cách mạng gió mùa” (monsoon revolution) ở Bangladesh vào tháng Tám năm ngoái, khi Thủ tướng Sheikh Hasina bị phế truất, cũng như phong trào aragalaya (đấu tranh) năm 2022 ở Sri Lanka đã lật đổ Tổng thống đương nhiệm Gotabaya Rajapaksa. Sự xuất hiện thường xuyên của các phong trào “quyền lực nhân dân” này phản ánh một số thách thức mang tính cấu trúc mà khu vực đang phải đối mặt, bao gồm bất ổn chánh trị, kiệt quệ kinh tế và áp lực dân số.

 

Ví dụ, Nepal đã thay đổi 14 chính phủ trong 17 năm kể từ khi chế độ quân chủ bị bãi bỏ vào năm 2008. Các cáo buộc tham nhũng, gia đình trị và quản lý kinh tế yếu kém, cùng với lệnh cấm 26 nền tảng mạng xã hội, đã thúc đẩy giới trẻ nước này xuống đường. Hơn một phần tư dân số Nepal dưới 15 tuổi, nước này có độ tuổi trung vị là 25 và một phần năm thanh niên thất nghiệp.

 

Những diễn biến này khiến người ta phải đặt câu hỏi về mức độ các bất ổn khu vực có thể cản trở khát vọng trở thành cường quốc toàn cầu của Ấn Độ. Ấn Độ bị bủa vây bởi một vòng cung bất ổn: bốn quốc gia đang nhận các gói cứu trợ của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (Bangladesh, Nepal, Pakistan, Sri Lanka); hai quốc gia có thể được coi là các quốc gia thất bại hoặc gần thất bại (Afghanistan, Myanmar); và hai quốc gia có tranh chấp lãnh thổ đang diễn ra, có lịch sử quan hệ phức tạp với Ấn Độ, và cũng tình cờ là các quốc gia sở hữu võ khí nguyên tử (Trung Quốc, Pakistan).

 

Điều khiến vấn đề thêm phức tạp là việc Nam Á nằm trong số các khu vực kém hội nhập nhất về kinh tế và thể chế trên thế giới: Thương mại nội khối chỉ chiếm 5% tổng kim ngạch thương mại, và Hiệp hội Hợp tác Khu vực Nam Á (SAARC) đã không tổ chức một cuộc họp thượng đỉnh nào kể từ năm 2014.

 

Phần lớn các cuộc thảo luận về Ấn Độ trong những năm gần đây có xu hướng tập trung vào vai trò và khát vọng toàn cầu của nước này: cương vị chủ tịch G20 năm 2023, chương trình không gian, sự vươn lên trở thành nền kinh tế lớn tăng trưởng nhanh nhứt thế giới, trên đà trở thành nền kinh tế lớn thứ ba thế giới vào cuối thập niên này, và mối quan hệ của nước này với các cường quốc lớn, bao gồm Mỹ, Trung Quốc, Nga và Âu châu. Khi chỉ tập trung vào những điều ấy, khu vực láng giềng của Ấn Độ thường bị lãng quên.

 

Một phần điều này phản ánh mong muốn của chính New Delhi là được nhìn nhận như một cường quốc toàn cầu mới nổi và mong muốn tách biệt quan hệ với Pakistan. Mặc dù đã mời tất cả các nhà lãnh đạo Nam Á đến dự lễ nhậm chức của mình vào năm 2014 và đưa ra chính sách “Láng giềng trên hết” trong nhiệm kỳ đầu tiên, Thủ tướng Narendra Modi và chính phủ của ông ngày càng tìm cách vươn ra ngoài khu vực.

 

Điều này trở nên rõ ràng tại Đối thoại Raisina năm nay, hội nghị chính sách đối ngoại hàng đầu của Ấn Độ, do Bộ Ngoại giao Ấn Độ đồng bảo trợ. Hội nghị bao gồm các vấn đề từ xung đột Ukraine và Gaza đến vai trò của Ấn Độ đối với trí tuệ / trí thông minh nhân tạo và quản trị không gian, nhưng có rất ít hoặc không có cuộc thảo luận nào về các diễn biến ở khu vực láng giềng của Ấn Độ - một lựa chọn đáng ngạc nhiên, nếu xét đến việc nó diễn ra chỉ nửa năm sau cuộc “cách mạng gió mùa” ở Bangladesh, vốn đã lật đổ một trong những chánh phủ được cho là thân Ấn Độ nhất trong khu vực.

 

Sự kiện này cũng diễn ra một tháng trước vụ tấn công chết người ở Kashmir vào tháng Tư, vốn đã châm ngòi cho giai đoạn thù địch tồi tệ nhất giữa Ấn Độ và Pakistan trong hơn hai thập niên. Việc các đại biểu tham dự hội nghị tập trung thảo luận về khả năng Ấn Độ khai triển lực lượng gìn giữ hòa bình để giám sát một lệnh ngừng bắn tiềm năng ở Ukraine, nhưng lại không hề bàn bạc về vai trò của Ấn Độ trong việc ổn định tình hình tại Afghanistan (A Phú Hãn) hay Myanmar (Miến Điện), đã cho thấy mức độ lãng quên có chủ ý đang len lỏi vào chánh sách ngoại giao láng giềng của nước này.

 

Khi được hỏi trong một cuộc thảo luận kín về tình trạng của chủ nghĩa khu vực ở Nam Á sau những bất đồng gần đây giữa Ấn Độ và Pakistan, một nghị sĩ Ấn Độ cùng phái đoàn đa đảng đến thăm Anh đã lập luận rằng Ấn Độ không xác định các nước láng giềng của mình bằng sự gần gũi về địa lý, mà bằng các lợi ích chung. Dù đúng là những liên minh giữa các quốc gia có cùng chí hướng - từ Bộ tứ Đối thoại An ninh cho đến khối BRICS - đã ngày càng phát triển trong những năm gần đây, nhưng những sáng kiến này không thể thay thế việc xây dựng mối quan hệ vững chắc với các nước láng giềng.

 

Nhiều người ở Ấn Độ sẽ cho rằng những thách thức của chủ nghĩa khu vực ở Nam Á là do mối quan hệ bất hòa kinh niên giữa Ấn Độ và Pakistan. Nhưng mặc dù điều này có thể giải thích cho tình trạng đáng buồn của SAARC, mà Pakistan là một thành viên, nó không giải thích tại sao các diễn đàn khu vực khác cũng gần như không hiệu quả. Một cơ quan khu vực khác, Sáng kiến Vịnh Bengal về Hợp tác Kỹ thuật và Kinh tế Đa ngành (BIMSTEC), không có sự tham gia của Pakistan, cũng chỉ tổ chức được sáu cuộc họp thượng đỉnh kể từ khi được thành lập vào năm 1997.

 

Sự đối lập giữa tình trạng bất ổn ở Nam Á với xu hướng xem nhẹ các diễn biến khu vực của New Delhi đòi hỏi một sự xem xét kỹ lưỡng vốn thường thiếu trong các cuộc thảo luận về chính sách đối ngoại của Ấn Độ.

 

Hầu hết các mối đe dọa an ninh bên ngoài của các quốc gia đều xuất phát từ vùng ngoại vi của họ. Đây là lý do tại sao việc Nga xâm lược Ukraine là một mối đe dọa hiện hữu đối với an ninh của Âu châu, hay tại sao mối đe dọa lớn nhất đối với Mỹ trong Chiến tranh Lạnh lại đến từ sân sau của họ trong cuộc khủng hoảng hỏa tiễn Cuba. Hoặc tại sao nhập cư bất hợp pháp lại là một vấn đề nhạy cảm đến vậy trong nền chánh trị của nhiều quốc gia. Đây là lý do tại sao việc giới hoạch định chánh sách đối ngoại Ấn Độ mải mê xây dựng hình ảnh cường quốc toàn cầu mà lơ là nghĩa vụ của một cường quốc khu vực là một chiến lược không bền vững.

 

Sự phớt lờ có chủ ý này đối với khu vực láng giềng của Ấn Độ lan sang cả vùng ngoại vi của đất nước. Bất ổn gần đây ở Ladakh—một lãnh thổ tranh chấp giáp với Trung Quốc và Pakistan—tương tự như sự bất ổn ở Manipur - một bang của Ấn Độ giáp với Myanmar - vào năm 2023. Trong cả hai trường hợp, chính phủ Ấn Độ đều bị coi là phản ứng chậm chạp. Ví dụ, ông Modi chỉ đến thăm Manipur hơn hai năm sau khi bất ổn xảy ra ở đó.

 

Chánh sách Nam Á của New Delhi cũng có ý nghĩa rộng lớn hơn đối với chính sách đối ngoại chung của đất nước. Nỗ lực can dự về phía đông của Ấn Độ theo khuôn khổ chính sách “Hướng Đông” - được chánh phủ Modi đổi tên thành chính sách “Hành động phía Đông” để cho thấy sự can dự chủ động hơn - đã bị chậm lại do xung đột ở Myanmar và sự hiện diện của một chánh phủ ít thân thiện với Ấn Độ hơn ở Bangladesh. Điều này đã khiến các nỗ lực thiết lập những tuyến kết nối đường bộ trực tiếp với Đông Nam Á bị đình trệ.

 

Nỗ lực can dự về phía Tây của Ấn Độ tại Trung Đông (mà New Delhi gọi là ‘Tây Á’) thậm chí còn phức tạp hơn. Trở ngại đến từ mối quan hệ vốn luôn trắc trở với Pakistan và tình hình bất ổn kéo dài ở Afghanistan (dù vậy, việc New Delhi đang tăng cường tiếp cận chính quyền Taliban ở Kabul cho thấy họ đang nỗ lực vượt qua rào cản này).

 

Ấn Độ đã xoay xở vượt qua những tắc nghẽn này bằng cách tăng cường các mối liên hệ hàng không, hàng hải và giao tiếp xã hội với khu vực thông qua các sáng kiến như cảng Chah Bahar do Ấn Độ điều hành ở Iran và Hành lang Kinh tế Ấn Độ-Trung Đông-Châu Âu, được công bố bên lề nhiệm kỳ chủ tịch G20 của Ấn Độ vào năm 2023. Và New Delhi đã nỗ lực tiếp cận gần đây với chính quyền Taliban ở Kabul. Tuy nhiên, sự can dự của Ấn Độ vào Trung Đông vẫn còn khá mong manh, và điều này tạo ra một sự tương phản rõ rệt khi so sánh với việc Pakistan và Ả Rập Saudi công bố hiệp ước quốc phòng vào tháng Chín.

 

Chủ nghĩa khu vực cũng quan trọng từ quan điểm kinh tế. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng Trung Quốc đã chọn con đường khu vực hóa trước khi toàn cầu hóa bằng cách hội nhập nền kinh tế và hạ tầng cơ sở của mình với các nước láng giềng. Điều này đã giúp củng cố vai trò trung tâm của nước này đối với các chuỗi cung ứng toàn cầu và mạng lưới sản xuất xuyên quốc gia. Ấn Độ sẽ cần phải làm điều tương tự nếu muốn thực hiện tham vọng trở thành một trung tâm sản xuất toàn cầu.

 

Các chánh phủ Tây phương cũng có lỗi khi nhìn nhận Ấn Độ một cách đơn lẻ mà không tính đến bối cảnh khu vực rộng lớn hơn. Một phần điều này phản ánh những vướng mắc quan liêu, khi Ấn Độ thường do một bộ phận khác xử lý so với phần còn lại của Nam Á: Lấy ví dụ, ngay tại Bộ Ngoại giao Anh, họ có một tổng cục riêng cho Ấn Độ và Ấn Độ Dương và một Tổng cục khác cho Afghanistan và Pakistan.

 

Trong Bộ Quốc phòng Mỹ (nay là Bộ Chiến tranh), Ấn Độ thuộc Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, trong khi Afghanistan và Pakistan thuộc Bộ Tư lệnh Trung tâm Mỹ. Việc bổ nhiệm Sergio Gor, người từng giữ chức đặc phái viên về Nam và Trung Á, làm đại sứ mới của Mỹ tại Ấn Độ là một diễn biến tích cực trong bối cảnh này - bất chấp những lo ngại của New Delhi rằng động thái này sẽ khiến Mỹ quay lại chính sách “gộp chung” Ấn Độ-Pakistan, đồng thời coi Ấn Độ đơn thuần là một cường quốc Nam Á.

 

Cuối cùng, cần phải có một sự thay đổi trong tư duy, liên kết chánh sách Ấn Độ chặt chẽ hơn với chính sách Nam Á rộng lớn hơn. Khi đặt Ấn Độ vào bối cảnh chung của toàn Nam Á, các chính phủ phương Tây cũng sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để giải quyết những thách thức chung mà cả khu vực này đang phải đối mặt.

 

Những thách thức này bao gồm gánh nặng dân số, với gần 40% dân số khu vực dưới 18 tuổi; rủi ro khí hậu, vì Nam Á là một trong những khu vực dễ bị tổn thương nhất trước các cú sốc khí hậu; và di cư, vì người Nam Á là một trong những nguồn nhập cư không có giấy tờ hàng đầu ở nhiều nước Tây phương.

 

Các chính phủ (bên ngoài) cũng cần phải tư duy lại cách thức tương tác với các quốc gia trong khu vực, bởi các phong trào quần chúng đang dần quét sạch nền chánh trị gia đình trị đã bám rễ sâu, nhường chỗ cho một thế hệ lãnh đạo mới trỗi dậy.

 

Điều này thể hiện rõ nhất ở Sri Lanka, nơi các cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội vào năm 2024 đã thách thức mọi dự đoán với sự thất bại của các ứng cử viên từ các triều đại chánh trị lâu đời. Người chiến thắng (Anura Kumara Dissanayake) lãnh đạo một liên minh các đảng cánh tả, một trong số đó (Janatha Vimukthi Peramuna) đã từng lãnh đạo một cuộc nổi dậy vũõ trang trên cả nước. Kết quả bầu cử bất ngờ này vừa cho thấy một nền chánh trị đầy biến động của Sri Lanka, đồng thời cũng phản ánh mức độ thất vọng của người dân đối với giới chánh trị chính thống của đất nước.

 

Các xu hướng tương tự đang xuất hiện ở Bangladesh và Nepal. Cả hai quốc gia đang được điều hành bởi các chính phủ lâm thời do các nhân vật uy tín đứng đầu: Người đoạt giải Nobel Muhammad Yunus ở Bangladesh và cựu Chánh án Sushila Karki ở Nepal. Các nhóm do sinh viên và thanh niên lãnh đạo, bao gồm Đảng Công dân Quốc gia ở Bangladesh và Hami Nepal, cũng đang nổi lên như những tiếng nói nổi bật ở cả hai quốc gia.

 

Điều này đe dọa làm suy yếu sự kìm kẹp lâu đời của giới tinh hoa ở cả hai quốc gia - thời đại của “cuộc chiến của các bà hoàng” (battling begums) ở Bangladesh, khi quyền lực xoay chuyển giữa Liên đoàn Awami và Đảng Dân tộc Bangladesh, và những người đàn ông lớn tuổi của ba đảng chánh trị chính của Nepal (Quốc đại Nepal và hai Đảng Cộng sản Nepal).

 

Xen lẫn những thay đổi chánh trị này là các diễn biến địa chánh trị rộng lớn hơn. Các quốc gia trong khu vực thường tìm cách tận dụng sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và Ấn Độ để đạt được những nhượng bộ từ cả hai quốc gia nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của họ trong khi vẫn giữ được quyền tự chủ. Ảnh hưởng của Trung Quốc ở Nam Á đã tăng lên khi nước này nổi lên như một đối tác thương mại hàng đầu, nguồn đầu tư nước ngoài và là đối tác quốc phòng ngày càng quan trọng đối với các quốc gia ở Nam Á.

 

Trong khi đó, các quốc gia trong khu vực duy trì mối quan hệ phức tạp với Ấn Độ, vì các đảng phái và ứng cử viên chánh trị thường tranh cử trên nền tảng chống Ấn Độ. Điều này đã được thể hiện rõ ở Maldives và Bangladesh, nơi luận điệu “Ấn Độ cút đi” là một phần nổi bật trong các chiến dịch tranh cử gần đây của cả hai quốc gia.

 

Trên thực tế, với tư cách là bá quyền khu vực, Ấn Độ vẫn là đối tác quan trọng của các quốc gia trong khu vực. Hãy nhìn vào cách New Delhi tiếp tục đóng vai trò là người cho vay cứu cánh cuối cùng, như với sự hỗ trợ kinh tế mà nước này cung cấp cho Sri Lanka và Maldives trong các cuộc khủng hoảng tài chánh gần đây của họ.

 

Trong một thế giới nơi các chuẩn mực và thể chế toàn cầu đang chịu áp lực, các nhóm khu vực đang tìm thấy những giá trị mới. Điều này càng làm tăng thêm tính cấp bách của nhiệm vụ tăng cường hội nhập và hợp tác khu vực ở Nam Á.

 

Khi tôi đưa ra đề xướng này với Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ S. Jaishankar vào đầu năm nay, câu trả lời của ông là chỉ ra các ví dụ về các sáng kiến mà qua đó Ấn Độ đã tìm cách tăng cường kết nối khu vực, từ các dự án hạ tầng cơ sở đến hỗ trợ tài chánh và phân phối vac-cine cho đến cung cấp ngũ cốc. Nhưng điều này không giải thích tại sao hội nhập khu vực và lòng tin trong khu vực vẫn còn yếu kém. Rõ ràng, vẫn còn nhiều điều cần phải cải thiện.

 

Điều này cũng quan trọng đối với Tây phương, nơi các cuộc tranh luận về nhập cư, khí hậu và vai trò toàn cầu của Trung Quốc đều đan xen với các diễn biến ở Nam Á ở các mức độ khác nhau. Mặc dù họ không thể ép buộc hội nhập khu vực, các quốc gia cùng chí hướng có thể tận dụng thế mạnh và khả năng tập hợp của mình để tạo điều kiện hợp tác trong các lĩnh vực cụ thể, chẳng hạn như sức chống chịu khí hậu, di cư và tăng cường kết nối vật lý và kỹ thuật số.

 

Nói thì dễ làm thì khó, trong bối cảnh viện trợ phát triển toàn cầu bị cắt giảm, các ưu tiên đối ngoại cạnh tranh và áp lực tài chánh. Nhưng với việc Nam Á chiếm một phần tư dân số thế giới, những gì xảy ra ở khu vực này đều có ý nghĩa quan trọng đối với phần còn lại của thế giới.

 

 

Chietigj Bajpaen là nghiên cứu viên cao cấp về Nam Á tại Chatham House.

 

 

(Dan Viet phụ đính)