Nguồn: Nathan Attrill, “Trump’s US can still defend Taiwan. But will it?”, The Strategist, 28/10/2025

 

Biên dịch: Viên Đăng Huy (nghiencuuquocte.org)

 

 

Khi nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Mỹ Donald Trump bắt đầu, Đài Loan nhận thấy mình đang phải lèo lái đối phó với một đối tác an ninh quen thuộc nhưng khó đoán hơn. Mỹ vẫn là người bảo đảm an ninh chính của Đài Loan nhờ vào tiềm lực và nhu cầu chiến lược, bán võ khí, huấn luyện và có thể can thiệp nếu Trung Quốc dùng vũ lực để thực hiện việc thống nhất. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Trump, sự khả tín - tức sự sẵn lòng hành động, không chỉ là có thể hay không có thể - đang trở nên ngày càng không chắc chắn.

 

Sự khác biệt giữa sự tin cậy (reliability) và sự khả tín (credibility) có ý nghĩa sâu sắc. Sự tin cậy đề cập đến nguồn lực vật chất và tính nhất quán trong sự hỗ trợ của đồng minh, năng lực của họ trong việc thực hiện các cam kết bằng sức mạnh quân sự. Ngược lại, sự khả tín liên quan đến ý chí chánh trị: nó thể hiện qua mức độ chắc chắn mà đối phương nhận thấy rằng đồng minh sẽ xử dụng năng lực đó khi cần thiết. Trong lý thuyết răn đe, sự khả tín đóng vai trò là hệ số nhân của sức mạnh quân sự, chuyển đổi sức mạnh tiềm năng thành quyết tâm đáng tin. Thiếu đi sự khả tín, ngay cả đối tác mạnh nhất cũng sẽ mất đi uy lực và tầm ảnh hưởng.

 

Những nhận xét gần đây của Trump chỉ làm gia tăng thêm những nghi ngờ về quyết tâm của Mỹ đối với an ninh Đài Loan. Trả lời một câu hỏi về tình huống có thể xảy ra xung đột với Đài Loan, Trump nói: “Tôi nghĩ chúng ta sẽ ổn với Trung Quốc. Trung Quốc không muốn làm điều đó”. Bằng cách hạ thấp nguy cơ xung đột leo thang ở Eo biển Đài Loan và trước đó ông còn gợi ý rằng chính sách về Đài Loan có thể được đem ra đàm phán trong các cuộc đối thoại thương mại rộng hơn với Trung Quốc, Trump đã tạo ra sự mơ hồ. Điều này có nguy cơ làm lu mờ các cam kết lâu đời của Mỹ và khiến tín hiệu răn đe bị yếu đi. Bắc Kinh, vốn luôn chú ý đến những thay đổi trong lời lẽ của Hoa Thịnh Đốn, đang quan sát những tín hiệu này một cách chặt chẽ, và có thể giải thích chúng là sự do dự chứ không phải là chiến lược.

 

Những tuyên bố này không phải là những tín hiệu trái chiều duy nhất được đưa ra. Vào tháng 9, Trump đã từ chối phê duyệt một gói viện trợ quân sự 400 triệu USD cho Đài Loan. Vào tháng 7, chuyến quá cảnh qua Mỹ đã được lên kế hoạch của Tổng thống Đài Loan Lại Thanh Đức đã âm thầm bị hạn chế, khi Hoa Thịnh Đốn từ chối phê duyệt các điểm dừng ở các thành phố của Mỹ mà Đài Bắc đã đề xuất trên đường đến Mỹ Latinh. Thay vào đó, nhóm của ông Lại đã tổ chức một cuộc họp kín, ngắn ngủi với các quan chức Mỹ ở Alaska—một sự khác biệt lớn so với các cuộc tiếp xúc cấp cao hơn dành cho những người tiền nhiệm của ông. Sự thay đổi này phản ánh sự thận trọng của Hoa Thịnh Đốn trong bối cảnh những nỗ lực nhằm ổn định quan hệ với Bắc Kinh trước cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ–Trung vào cuối tháng 10. Mặc dù các cuộc đàm phán ở Alaska cho phép các cuộc trao đổi cấp chuyên viên tiếp tục, nhưng hình thức tổ chức lại cho thấy sự tiết chế: điều này báo hiệu Hoa Thịnh Đốn đang quay lại phương thức quản lý quan hệ với Đài Loan một cách âm thầm thay vì công khai.

 

Dư luận Đài Loan phản ánh sự bất an ngày càng tăng này. Đầu năm nay, một cuộc khảo sát của Quỹ Dư luận Đài Loan (TPOF) cho thấy gần hai phần ba số người được hỏi ban đầu không lo lắng về việc quan hệ Mỹ–Đài Loan xấu đi trong nhiệm kỳ thứ hai của Trump.

 

Nhưng đến tháng Mười, dư luận đã thay đổi: phần lớn người dân hiện tại xem Tổng thống Mỹ là người có thể can thiệp, nhưng, lại không sẵn lòng bảo vệ Đài Loan.

 

Mỹ tiếp tục sở hữu năng lực quân sự đáng gờm - bao gồm năng lực khai triển sức mạnh áp đảo, tầm hoạt động tình báo sâu rộng, và hậu cần mạnh mẽ - ngay cả khi lực lượng của Trung Quốc hiện đại hóa nhanh chóng đang dần thu hẹp lợi thế đó. Về sức mạnh của Mỹ trong bối cảnh xung đột Đài Loan có thể xảy ra, ông Trump đã tuyên bố: “Chúng ta có mọi thứ tốt nhất, không ai có thể gây rối với điều đó. Và tôi tin chắc rằng Chủ tịch Tập cũng không có ý định đó”. Trong khi ca ngợi sức mạnh quân sự của Mỹ đồng thời hạ thấp nguy cơ khủng hoảng và nhấn mạnh mối quan hệ cá nhân tốt của mình với Tập, Trump phô trương sự tự tin mà không kèm theo cam kết. Bởi vì điều quan trọng hơn là liệu Bắc Kinh có tin rằng Hoa Thịnh Đốn thực sự sẽ xử dụng sức mạnh đó trong một cuộc khủng hoảng hay không. Nếu Mỹ bị coi là không sẵn lòng gánh chịu các chi phí chánh trị hoặc kinh tế của việc can thiệp, hiệu ứng răn đe của họ sẽ suy yếu, ngay cả khi võ khí vẫn còn đó.

 

Các mức quan thuế “có qua có lại” mới của Trump cũng làm gia tăng sự bất ổn ở Đài Loan. Mức quan thuế diện rộng 32% (sau đó được điều chỉnh xuống còn 20%) đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế phụ thuộc nặng vào xuất cảng của Đài Loan, châm ngòi cho các cuộc tranh cãi giữa các đảng phái trong nước. Chánh quyền của ông Lại đã cố gắng mô tả các mức quan thuế như một sự thúc đẩy đau đớn nhưng cần thiết hướng tới đa dạng hóa nền kinh tế Đài Loan. Trong khi đó, đảng đối lập lập luận rằng các mức quan thuế này đã phơi bày sự phụ thuộc quá mức nguy hiểm của Đài Loan vào thị trường Mỹ và giới hạn của mối quan hệ Hoa Thịnh Đốn – Đài Bắc.

 

Các cuộc thăm dò cho thấy người dân Đài Loan bị chia rẽ nhưng vẫn giữ thái độ thực dụng: họ ủng hộ các gói cứu trợ khẩn cấp, nhưng lại ngày càng thất vọng về việc nền kinh tế đất nước quá dễ bị tổn thương trước những thay đổi trong chính sách Mỹ. Ngành công nghiệp bán dẫn chính là ví dụ rõ nhất cho nghịch lý này. Việc Hoa Thịnh Đốn áp dụng miễn trừ chọn lọc, đặc biệt cho các công ty như TSMC đầu tư xây dựng nhà máy tại Mỹ, đã giúp Đài Loan giảm bớt phần nào khó khăn từ quan thuế, nhưng đồng thời lại trói buộc Đài Loan chặt chẽ hơn vào chiến lược công nghiệp của Mỹ. Thực chất, chính sách của Mỹ hiện nay vừa kéo Đài Bắc xích lại gần vừa hạn chế họ, vừa củng cố sự phụ thuộc lại vừa tuyên bố thúc đẩy sức phục hồi.

 

Động lực giao dịch này đang định hình lại mối quan hệ. Dưới thời Trump, các liên minh là công cụ đòn bẩy, không phải là biểu hiện của các giá trị chung. Quan hệ đối tác của Đài Loan với Mỹ đang được định hình lại không phải là một mối liên kết dân chủ mà nghiêm ngặt hơn là một thành phần của mối quan hệ rộng lớn hơn của Mỹ với Trung Quốc—một thứ có thể được định giá, đàm phán hoặc giữ lại. Đối với Đài Bắc, sự thay đổi đó mang lại rủi ro chiến lược: một đối tác an ninh vẫn không thể thiếu, nhưng ngày càng có điều kiện.

 

Các hàm ý không chỉ cho Đài Loan. Nếu sự khả tín của Hoa Thịnh Đốn xói mòn ở Đài Bắc, nó sẽ lan truyền đến Tokyo, Canberra và các thủ đô khác ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vốn đang điều chỉnh thế bố trí răn đe và cảm giác an ninh của họ dựa trên các cam kết của Mỹ.  Sự mơ hồ, từ lâu đã là một đặc điểm có chủ ý trong chính sách Đài Loan của Mỹ, giờ đây không còn trông giống chiến lược và giống trạng thái vô định hơn.

 

Đài Loan chắc chắn sẽ (will likely) tiếp tục phòng bị nước đôi bằng cách tăng cường phòng thủ trong nước, đào sâu hợp tác với Nhật Bản và Úc và tìm kiếm sự tham gia nhiều hơn của châu Âu. Tuy nhiên, câu hỏi sâu hơn vẫn là liệu Mỹ, dưới một chính quyền đề cao giao dịch hơn là niềm tin, liệu vẫn có thể được tin cậy khi điều đó quan trọng nhất hay không. Đối với Đài Loan, quyền  lực quân  sự và  kinh tế (hard power: - hiện nay thường  được gọi là quyền lực cứng / sức mạnh cứng) đáng tin cậy của Mỹ có thể vẫn còn đó, nhưng lời hứa sẽ xử dụng sức mạnh ấy khi cần thiết thì lại đang có vẻ ngày càng có thể bị đem ra đàm phán.

 

 

Nathan Attrill là chuyên gia phân tách cấp cao tại Chương trình An ninh, Công nghệ và Không gian mạng của Tổ chức Nghiên cứu Chánh sách Sách Lược Úc Đại Lợi -  ASPI (Australian Strategic Policy Institute).

 

 

(Huy Lê phụ đính)