.jpg)
Nguồn: Hoàng Phác Dân, 黄朴民:中西军事学术的比较与互鉴之我见, aisixiang, 21/11/2025.
Biên dịch: Lê Thị Thanh Loan (nghiencuuquocte.org)
Tuy nhiên, chỉ nói vậy thôi thì chưa đủ toàn diện và biện chứng. Chúng ta cũng cần thừa nhận rằng, chiến tranh xảy ra khá thường xuyên trong lịch sử Trung Quốc. “Chiến thần” Bạch Khởi nổi tiếng với việc chém đầu 24 vạn người ở Y Khuyết và chôn sống hơn 40 vạn quân ở Trường Bình. Chúng ta cũng nên thấy rằng, sự thống nhất vĩ đại của dân tộc Trung Hoa diễn ra trong sự song hành của những cuộc giao lưu hòa bình và những cuộc chiến tàn khốc. Ngay cả Tôn Tử binh pháp – trước tác kinh điển hàng đầu về binh học – cũng mạnh mẽ đề xướng “phá thành của họ, diệt nước của họ”, “cướp bóc vùng giàu có”, “cướp làng chia dân”, kêu gọi “đánh nước lớn”, “làm cho địch khiếp phục”.
Thật vậy, trong vô số văn thư Trung Quốc cổ đại, có vô vàn những lời chỉ trích đối với việc theo đuổi chiến tranh và chủ nghĩa quân phiệt. Những câu như “Thấy ta say ngủ nơi sa trường chớ cười, xưa nay chiến trận có mấy ai về?”, “Nhất tướng công thành, vạn cốt khô”, “Giết chóc phải có hạn độ, dựng nước phải có cương vực. Nếu có thể ngăn xâm lăng, đâu cần giết chóc vô độ?”,… đều lên án sự tàn khốc của chiến tranh và kêu gọi hòa bình. Tuy nhiên, nếu suy ngẫm sâu xa hơn thì có thể thấy rằng, việc những điểm này càng được nhấn mạnh, những thảm họa của chủ nghĩa quân phiệt càng bị lên án và tố cáo, thì chẳng phải càng chứng tỏ rằng trong xã hội tồn tại rất nhiều hiện tượng chiến tranh tàn khốc hay sao? Như Lão Tử từng nói: “Khi đại đạo mai một, mới sinh ra nhân nghĩa; khi trí tuệ phát sinh, mới có sự dối trá; khi thân thích bất hòa, mới cần đến hiếu thảo; khi quốc gia hỗn loạn, mới có trung thần.” Nghịch lý của lịch sử nằm ở chỗ, khi giai điệu “Thu phục kẻ thù mà không cần đánh” vang lên, thì cùng lúc đó vẫn có những cảnh tượng chân thực như “Đánh đất đổ máu, đánh thành đổ máu” hay “Máu chảy như biển ở các đồn biên phòng, mà tham vọng mở mang bờ cõi của Hoàng đế vẫn chưa thành”. Vì vậy, trong lúc khẳng định khuynh hướng chủ đạo của “thận chiến” trong văn hóa quân sự truyền thống Trung Quốc, chúng ta cũng nên nhìn nhận những đặc tính khác của nó. Tuy những yếu tố tiêu cực này chỉ là thứ yếu, nhưng sự tồn tại của chúng là không thể phủ nhận. Việc quan sát biện chứng này mới thực sự tuân thủ lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa duy vật lịch sử trong quá trình so sánh và tương chiếu. Chỉ bằng cách này, chúng ta mới có thể tránh được việc nhìn nhận và phân tích vấn đề một cách phiến diện, một chiều và tĩnh tại, mà thay vào đó là sử dụng những cùng góc nhìn, phương pháp đa chiều và phát triển để so sánh và tương chiếu các nền văn minh.
Những sai lầm nhận thức mang tính siêu hình, lấy bộ phận để nói toàn thể trong quá trình so sánh và học hỏi lẫn nhau như vậy cũng liên tục được phản ánh trong việc đánh giá đặc trưng văn hóa quân sự phương Tây, gây bất lợi cho sự phát triển lành mạnh của công cuộc học hỏi giữa các nền văn minh. Ví dụ việc gán mác một cách cứng nhắc cho các truyền thống quân sự phương Tây là chủ trương “chiến tranh tuyệt đối” và “bạo lực tuyệt đối”, rồi từ đó đơn giản kết luận rằng chúng thua kém truyền thống quân sự Trung Quốc vốn chủ trương “bạo lực tương đối” và “tính giới hạn có thể kiểm soát được của chiến tranh”. Kiểu so sánh này rõ ràng tồn tại vấn đề. Trong những điều kiện nhận thức như vậy, việc tiến hành học hỏi lẫn nhau giữa hai nền văn minh quân sự Trung Quốc và phương Tây chỉ là hão huyền. Điều này là bởi nó đi chệch hướng nghiêm trọng khỏi tinh thần cơ bản của phép biện chứng và đã giản lược hóa quá mức các hiện tượng phức tạp.
Về quan niệm chiến tranh, cả phương Đông và phương Tây đều có những cách hiểu khác nhau và chưa từng có một quan điểm thống nhất. Tuy Clausewitz có thể đã nhấn mạnh tính tuyệt đối của chiến tranh và khẳng định vai trò của bạo lực, nhưng phương Tây cũng có “cách tiếp cận gián tiếp” của Liddell Hart và cũng có không ít người đã phê phán gay gắt quan điểm của Clausewitz. Họ thường nhấn mạnh rằng, chiến tranh phải có sự kiềm chế và không được hành động tùy tiện. Ở phương diện này, quan điểm của nhà quân sự học người Anh John Frederick Charles Fuller mang tính đại diện. Ông tuyên bố: “Chiến tranh có thể được chia thành hai loại là chiến tranh với mục tiêu chính trị hữu hạn và chiến tranh với mục tiêu chính trị vô hạn. Chỉ có loại đầu tiên mới mang lại lợi ích cho bên chiến thắng, tuyệt đối không phải loại thứ hai.”[11] “Tín điều tai hại cho rằng mục tiêu cuối cùng của tác chiến là tiêu diệt kẻ thù, về mặt lý luận đã phủ nhận mục đích thực sự của chiến tranh, cụ thể là xây dựng một cuộc sống hòa bình tốt đẹp hơn… Để đạt được mục đích thực sự của chiến tranh, phải chấm dứt việc sử dụng các biện pháp hủy diệt. Nghĩa là, chiến tranh phải dần phát triển từ đấu tranh vũ lực sang đấu trí và đấu sĩ khí; nói cách khác, nghệ thuật chỉ huy về cơ bản phải thay thế bạo lực, dùng sự lung lay tinh thần hay đòn đánh tâm lý thay cho đòn tấn công bằng vũ lực hay phá hoại thân thể.”[12] “Trong chiến tranh, hành vi man rợ là điều không đáng làm. Đừng dồn kẻ thù vào tuyệt vọng. Dù anh có thể giành chiến thắng, nhưng cách làm ấy sẽ kéo dài chiến tranh, gây thêm nhiều tổn thất về tài sản và nhân mạng hơn, mà về cơ bản là bất lợi cho chính anh.”[13] Quan điểm này cũng tương đồng với tư tưởng trong Tôn Tử binh pháp: “Quân bỏ chạy chớ đuổi, quân bị vây phải chừa đường, kẻ cùng đường chớ bức.” Điều này hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc chung của sinh thái học chính trị, tức là “Trừ ác không thể trừ sạch, để lại đối thủ chính là điều kiện để bản thân tồn tại. Không có ngoại họa, quốc gia ắt dễ diệt vong.” Hơn nữa, cũng cần giúp đỡ kẻ thù khi cần thiết: “Trong suốt lịch sử chiến tranh, điều đáng chú ý là mối quan hệ địch – ta thường xuyên thay đổi. Khi đánh bại đối thủ, hãy khôn ngoan để họ đứng dậy. Bởi ở cuộc chiến tiếp theo, có thể anh sẽ cần tới sự giúp đỡ của họ.”[14] Vì vậy, Fuller đã chỉ trích niềm háo hức chiến thắng của Clausewitz một cách mạnh mẽ: “Clausewitz có nhiều nhận định mù quáng, trong đó sai lầm lớn nhất là ông chưa từng nhận ra rằng mục đích thực sự của chiến tranh là hòa bình, chứ không phải chiến thắng. Do đó, hòa bình phải là tư tưởng chủ đạo trong chính sách và chiến thắng chỉ đơn thuần là phương tiện để đạt được mục tiêu này.”[15]
Tương ứng, tuy lập trường và quan điểm “thận chiến” quả thực là xu hướng chủ đạo của văn hóa quân sự trong lịch sử Trung Quốc, nhưng nó cũng đi kèm với những tạp âm “hiếu chiến” và “chủ chiến”. Chẳng hạn, quan điểm về chiến tranh của Pháp gia rõ ràng trái ngược với Nho gia, Đạo gia, Mặc gia và các Binh gia như Tôn Tử. Trường phái này đề cao sức mạnh và có niềm tin mê muội vào bạo lực. Công thức tính toán thành – bại trong chiến tranh của họ là ai phát triển nông nghiệp tốt hơn thì có thể xây dựng được một đội quân hùng mạnh hơn. Với một đội quân hùng mạnh, dùng luật lệ nghiêm khắc để ràng buộc tướng sĩ và khuyến khích họ bằng những bổng lộc như tiền bạc và chức tước, vậy thì sẽ chẳng có kẻ thù nào không đánh bại được, chẳng có thành trì nào không công phá được và cũng chẳng có đất nước nào không chinh phục được. Trong mắt Pháp gia, chiến tranh là phương thuốc chữa bách bệnh, là con đường tắt để trị quốc, ổn định trật tự và phát triển thực lực, không thể thiếu dù chỉ một khoảnh khắc. Họ tin rằng chân lý đến từ nắm đấm và đúng sai được định đoạt bằng đao kiếm. Phải nói rằng, quan điểm về chiến tranh của Pháp gia là vô cùng thẳng thắn, không hề vòng vo giả tạo, không do dự e dè và chắc chắn có đạo lý nhất định. Tuy nhiên, như người ta vẫn nói, chân lý đi quá một bước sẽ trở thành sai lầm. Khuyết điểm chí mạng của Pháp gia nằm ở niềm tin mù quáng vào sức mạnh quân sự, trong khi xem nhẹ các yếu tố khác có thể kiềm chế chiến tranh, chẳng hạn như sự ủng hộ của dân chúng và giáo dục chính trị. Do đó, Pháp gia có thể tạm thời đắc chí trong thiên hạ, như “Tần Hoàng quét qua sáu nước, ánh mắt uy nghiêm như loài hổ, vung kiếm xua mây mù, chư hầu đều quay về Tây.” Tuy nhiên, nó thường không thể duy trì lâu dài do có quá nhiều hậu họa, khó tránh khỏi cảnh “một người nổi loạn khiến bảy miếu thờ bị hủy hoại, bản thân chết trong tay kẻ khác, trở thành trò cười cho thiên hạ”.[16]
Vậy rốt cuộc thì chúng ta đang so sánh điều gì? Và chính xác thì đang học hỏi được gì từ nhau? Thực ra, đây là một quá trình tư duy mang tính chiến lược, trong đó sự lựa chọn chủ quan kết hợp với các điều kiện khách quan, là kết quả tự nhiên của quá trình phân tích tổng hợp, lựa chọn và ra quyết định. Trong suốt quá trình này, sự chỉ đạo của chủ nghĩa duy vật lịch sử và việc vận dụng phép biện chứng luôn được quán triệt từ đầu tới cuối. Đó là sự cân bằng giữa kinh nghiệm quá khứ và giá trị kỳ vọng, là sự thống nhất giữa việc nêu bật dòng chính và xem xét nhánh phụ, và là sự hòa hợp giữa việc kiên định với bản thân và học hỏi từ người khác, đồng thời đạt được giá trị ưu tiên tối đa trên cơ sở này. Nói cách khác, việc học hỏi lẫn nhau giữa nền văn minh quân sự Trung Quốc và phương Tây chính là tối đa hóa sự khẳng định, tạo nên sự đồng thuận lớn hơn và đạt được sự chia sẻ nhiều hơn đối với những yếu tố ưu việt đã được kinh nghiệm lịch sử chứng minh và được lý tính nhân loại công nhận rộng rãi. Như vậy, trong quá trình học hỏi lẫn nhau, mỗi bên đều đạt được đều đạt được sự chứng minh tốt hơn và sự tiến bộ lớn hơn. Ví dụ, về quan niệm chiến tranh, cả Trung Quốc và phương Tây đều có chủ trương và thực tiễn về phi chiến, hiếu chiến và thận chiến. Tuy nhiên, lịch sử đã chứng minh rằng: “Nước lớn mà ham chiến ắt sẽ diệt vong, thiên hạ thái bình mà bỏ quên chiến tranh ắt sẽ lâm nguy.” Hiếu chiến hay phi chiến đều không phải lựa chọn đúng đắn, chỉ có thận chiến mới là con đường hợp lý. Do đó, việc học hỏi lẫn nhau ở phương diện này chỉ có thể tập trung vào luận điểm trung tâm này. Theo nghĩa này, sự so sánh và tương chiếu giữa nền văn minh quân sự Trung Quốc và phương Tây là sản phẩm của sự cân bằng tổng hợp giữa điều kiện khách quan và lựa chọn chủ quan.
Fuller từng nói: “Thế giới không có điều gì hoàn toàn mới. Tôi từng nói, chỉ cần người học nghiên cứu lịch sử một chút là sẽ thấy rằng, nhiều giai đoạn chiến tranh sẽ tái sử dụng những hình thức tác chiến mà về cơ bản là giống nhau. Chỉ cần nghiên cứu và suy ngẫm một chút, ta sẽ nhận ra rằng, tất cả các chiến lược và chiến thuật được sử dụng trong quá khứ, dù là có ý thức hay vô thức, cũng đều được xây dựng dựa trên các nguyên tắc quân sự… Dù quân đội gồm bộ binh, kỵ binh hay bộ binh cơ giới, thì các nguyên tắc bảo toàn lực lượng, tập trung, bất ngờ, an ninh, tấn công, cơ động và phối hợp vẫn luôn được áp dụng. Tóm lại, mô-tơ hóa và cơ giới hóa chỉ thay đổi điều kiện chiến tranh, tức là thay đổi công cụ mà vị tướng sử dụng, chứ không phải các nguyên tắc quân sự của ông ta. Đây là điều rất dễ thấy.”[17] Điều này minh họa cho tính vĩnh cửu và ổn định của các nguyên tắc cơ bản trong quân sự học từ góc độ thời gian. Nhưng thực ra, chẳng phải tính thống nhất và tính phổ biến ấy cũng hoàn toàn đúng ở góc độ không gian sao? Đúng là giữa các tác phẩm quân sự của Trung Quốc và phương Tây tồn tại những khác biệt đáng kể về phong cách ngôn ngữ, kết cấu logic và phương thức mô tả, bởi chúng là sản phẩm của hai nền văn minh quân sự khác nhau. Tuy nhiên, giống như câu nói: “Trăm sông tuy khác nguồn nhưng đều chảy về biển, trăm trường phái tuy làm theo đuổi con đường khác nhau nhưng đều hướng tới trị quốc.”[18] Bất chấp những khác biệt, những vấn đề cốt lõi cơ bản của quân sự học Trung Quốc và phương Tây, chẳng hạn như đề cao tướng lĩnh, linh hoạt đa biến, tập trung binh lực, cân bằng giữa tấn công và phòng thủ, lấy xây dựng sức mạnh làm gốc, coi trọng tinh thần và sĩ khí,… có thể nói là đều nhất quán, tương thông với nhau. Trong hàng ngàn năm, tất cả những điều này đã tiếp nối và củng cố lẫn nhau. Sự nhất quán và tương đồng này vượt xa bất kỳ sự “khác biệt” hay “đối lập” nào. Đây là nền tảng và tiền đề cho “sự học hỏi lẫn nhau” giữa hai nền văn minh quân sự Trung Quốc và phương Tây. Theo nghĩa này, chúng ta nên nhận thức đầy đủ tính đồng nhất giữa quân sự học Trung Quốc và phương Tây, từ đó hiểu rõ hơn những nội hàm và giá trị vượt thời gian – không gian của tư tưởng và văn hóa quân sự Trung Quốc – phương Tây, đồng thời rút ra những hiểu biết bổ ích từ chúng. Có như vậy, mục đích ban đầu của việc so sánh và tương chiếu giữa các nền văn minh quân sự mới có thể đạt được một cách lý tưởng.
Bài viết này được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Tôn Tử binh pháp kỳ 2 năm 2025.
————
[1] Chu Hoàn (1994). Quan điểm của tôi về lịch sử thế giới và nghiên cứu so sánh, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1.
[2] Lưu Gia Hòa (1996). Nghiên cứu so sánh lịch sử và lịch sử thế giới, Tạp chí Đại học Sư phạm Bắc Kinh, số 5.
[3] “Thử phân tích những khiếm khuyết của truyền thống quân sự Trung Quốc cổ đại”, Tạp chí Khoa học Quân sự, số 6, năm 1989.
[4] Hán thư – Nghệ văn chí – Binh thư lược tự. Ban Cố, Hán thư, Trung Hoa Thư Cục, 1961.
[5] Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu, quyển 99, tử bộ 9, mục “Binh gia loại”.
[6] Tây Hồ Dật Sĩ: Đầu bút phu đàm dẫn.
[7] Lão Tử – Chương 31.
[8] Mạnh Tử – Ly Lâu.
[9] Hàn Phi Tử – Tồn Hàn.
[10] Thái Bạch âm kinh, quyển I.
[11] Fuller (2014). “Lời nói đầu”, Chỉ đạo chiến tranh (Triển Húc dịch, Chu Trì hiệu đính), Nhà xuất bản Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, trang 4.
[12] Chiến tranh thiết giáp, trang 54.
[13] Chỉ đạo chiến tranh, “Lời nói đầu”, trang 4.
[14] Chỉ đạo chiến tranh, “Lời nói đầu”, trang 4.
[15] Chỉ đạo chiến tranh, trang 84.
[16] Giả Nghị, Quá Tần luận.
[17] Fuller (2016). Chiến tranh thiết giáp (Chu Đức và cộng sự dịch), Nhà xuất bản Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, trang 13.
[18] Hoài Nam Tử – Phạm luận huấn.
