.jpg)
Ảnh minh họa: Mỏ lithium tại Afghanistan. AP - Rahmat Gul
Quá trình chuyển đổi năng lượng đòi hỏi những công nghệ sử dụng nhiều loại đất hiếm. Tuy nhiên, ngoài những căng thẳng về địa chính trị, quy trình khai thác, chiết xuất và tinh chế đất hiếm đặt ra nhiều vấn đề cho xã hội và môi trường. Tình trạng nhiễm độc thạch tín (arsenic) tại nhiều đoạn lưu vực sông Mê Kông do khai thác đất hiếm ở Lào và Miến Điện là một ví dụ mới nhất.
Theo ước tính, thị trường 17 loại nguyên tố đất hiếm chiếm một tỷ trọng khá khiêm tốn : Khoảng 9 tỷ đô la/năm với sản lượng hàng năm là 150 ngàn tấn. Nhưng đây lại là những thành phần quan trọng cho thị trường các ngành công nghiệp tiên tiến có giá trị lên đến bảy ngàn tỷ đô la mỗi năm. Tính đến những năm 1980, Hoa Kỳ là quốc gia thống lĩnh thị trường sản xuất đất hiếm. Nhưng từ năm 1995, Trung Quốc chiếm thế độc quyền. Một phần là do giá nhân công rẻ, trữ lượng khoáng sản cao và các quy định về môi trường mềm dẻo hơn cho phép Trung Quốc hạ giá thành sản phẩm.
Ngay từ những năm 1950, người ta đã nhận thấy vai trò thiết yếu của đất hiếm cho phát triển các ngành công nghệ cao. Ngoài các lĩnh vực như điện thoại thông minh, trí tuệ nhân tạo, thậm chí cả vũ khí, chẳng hạn như tên lửa, các nguyên tố đất hiếm này được cho là đóng một vai trò then chốt cho quá trình phát triển điều được gọi là « năng lượng xanh » như tua-bin điện gió, xe điện, tấm pin năng lượng mặt trời ... nhờ vào các đặc tính của chúng như chất xúc tác, nam châm, luyện kim và đánh bóng. Và tùy theo mỗi loại đất hiếm, chúng có một ứng dụng khác nhau trong công nghiệp.
Đất hiếm : Quy trình tinh chế gây ô nhiễm
Khai thác khoáng sản vốn dĩ đã là một hoạt động gây ô nhiễm. Điều này cũng không là ngoại lệ đối với đất hiếm. Theo giải thích từ nhà nghiên cứu Emilie Janots, giảng viên đại học Grenoble Alpes trên trang CNRS Terre & Univers, việc lập các khu vực thăm dò và khai thác khoáng sản là gây ô nhiễm, do những hoạt động này tạo ra các vùng tích tụ chất thải, gây ra những hậu quả tai hại cho môi trường. Nguyên nhân chính là vì các đặc tính hóa học của đất hiếm, khiến hoạt động khai thác chúng gây ô nhiễm. Bởi vì, 17 loại nguyên tố đất hiếm này có đặc điểm độc đáo là chúng hiện diện trộn lẫn với nhau trong các mỏ. Và do vậy, việc khai thác, chế biến và phân tách đất hiếm là rất tốn kém về năng lượng, nước và hóa chất.
Một mặt, những mỏ lớn nhất có khoảng 5% đất hiếm nhưng trong hầu hết các trường hợp, con số nay chỉ gần 1%. Điều này giải thích vì sao nhu cầu khai thác một lượng lớn đá chỉ để thu được một tỷ lệ đất hiếm ít ỏi vào cuối giai đoạn. Có thể nói phân tách đất hiếm là một quy trình đặc biệt khó, như thể « người ta muốn phân tách các sắc thái khác nhau của mầu xám. Họ dễ tách mầu trắng khỏi màu đen. Nhưng làm sao có thể tách 5% của mầu đen, 6% của mầu đen hay 7% của mầu đen ? », theo cách giải thích ẩn dụ của nhà nghiên cứu mỏ khoáng sản Rajive Ganguli, giáo sư đại học Utah, Hoa Kỳ với Le Monde.
Mặt khác, 17 loại nguyên tố đất hiếm trộn lẫn vào nhau trong một mỏ khoáng sản, nhưng người ta thường chỉ cần chiết xuất từ 3-4 loại. Mỗi lần cô lập một loại đất hiếm duy nhất phải sử dụng một lượng lớn hóa chất. Một quy trình mà theo đánh giá của giáo sư đại học Utah, Rajive Ganguli là có thể gây ô nhiễm cao, do việc « người ta phải đào nhiều hố trên mặt đất và bơm vào đấy các loại hóa chất (…) Quy trình này gây ô nhiễm cho nước, các mạch nước ngầm… » Chưa kể tại một số mỏ, đất hiếm còn bị trộn lẫn với thorium, uranium, hai nguyên tố phóng xạ. Đây là nguyên nhân người ta thường tìm thấy hai nguyên tố này trong các khoáng chất chứa đất hiếm và do vậy tạo ra chất thải phóng xạ trong quá trình khai thác.
Năng lượng xanh có « sạch » hay không ?
Chỉ có điều, thế giới đang đặt ra mục tiêu kìm hãm mức tăng nhiệt độ hâm nóng khí hậu và do vậy, phải hạn chế việc sử dụng năng lượng hóa thạch như điện than, khí đốt, giảm phát thải khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính. Quá trình chuyển đổi năng lượng này đòi hỏi sử dụng nhiều công nghệ có chứa đất hiếm. Ví dụ như các thanh nam châm trong tua-bin điện gió chứa đến 70% chất neodymium. Do các đặc tính từ tính của loại kim loại này mạnh hơn nhiều so với các loại nam châm cũ nên kích thước và trọng lượng của chúng được giảm xuống, giúp tối ưu hóa hiệu suất của tua-bin gió. Tuy nhiên, việc khai thác các mỏ đất hiếm mới cũng đồng nghĩa với việc hủy hoại môi trường tự nhiên và đa dạng sinh học.
Điều này làm dấy lên nỗi ngờ vực : Liệu công nghệ năng lượng xanh có thực sự « sạch » ? Chẳng hạn, để đảm bảo mục tiêu chuyển đổi năng lượng của mình, Liên Hiệp Châu Âu có kế hoạch cấm bán xe mới chạy bằng động cơ xăng dầu vào năm 2035 để rồi đạt mục tiêu trung hòa khí CO2 vào năm 2050. Nhà báo Guillaume Pitron, chuyên gia về nguyên nhiên liệu, trên kênh truyền hình TV5 Monde (15/11/2023) cảnh báo để có thể hoàn thành những mục tiêu này, châu Âu cần rất nhiều thứ kim loại để sản xuất các loại phương tiện mới.
Và để có thể tìm đủ các thứ kim loại đó, các nhà sản xuất và cung cấp sẽ phải đi tìm kiếm nguyên nhiên liệu tại những nước mà các quy định về môi trường lỏng lẻo hơn nhiều so với tại châu Âu. « Ví dụ, họ có thể tìm mua ở Trung Quốc, Congo, Kinshasa, tại Bolivia, những nước không có cùng quy định, tiêu chuẩn và do vậy, cái giá phải trả cho môi trường là nghiêm trọng do việc các nhà cung cấp không có cùng tiêu chuẩn, chuẩn mực về kỹ thuật chiết xuất. Vì vậy, ở đây còn có phí môi trường, phí xã hội, phí con người, những cái giá mà chính chúng ta đã không thật sự nhận thức ra, bởi vì tất cả những điều đó diễn ra ở xa chúng ta ».
Khai thác đất hiếm ở Miến Điện : Ô nhiễm arsenic trên Mêkông
Đây là những gì đang xảy ra cho nhiều đoạn trên lưu vực sông Mê Kông. Theo tiết lộ của trang Mongabay (27/10/2025), nhóm nghiên cứu thuộc trung tâm tư vấn Stimson Center qua phân tích các hình ảnh vệ tinh, đã xác định ít nhất có 27 mỏ đất hiếm đã được mở tại Lào từ năm 2022. Theo đó, « mười lăm trong số các mỏ này đang hoạt động trong lưu vực sông Mê Kông, nghĩa là có 12 mỏ trên sông Nam Khan và 3 mỏ trên sông Nam Ngiep, cả hai đều đổ vào sông Mê Kông, con sông dài khoảng 4.900 km, bắt nguồn từ Tây Tạng chảy qua Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam trước khi đổ ra Biển Đông. »
Cũng theo Trung tâm Stimson, mười mỏ khai thác đất hiếm khác trên các con sông Nam hao và Nam Xan, trên lưu vực sông Ma, có nguy cơ gây ra mối đe dọa sinh thái xuyên biên giới, không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với Khu Bảo tồn Đa dạng Sinh thái Nam Xam, nằm ở biên giới Lào và Việt Nam, nơi sinh sống của loài vượn má trắng phương Bắc đang bị đe dọa nghiêm trọng và loài voi châu Á có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Trang Mongabay cho biết hàm lượng chất arsenic tại những con sông này cao bất thường so với trước đây. Các nhà nghiên cứu cảnh báo nguy cơ môi trường sinh thái đa dạng ở sông Mê Kông, nơi nuôi sống cho hơn 50 triệu người dân do sự phụ thuộc của họ vào nguồn thực phẩm, nguồn nước và sinh kế, bị tổn hại lâu dài và nghiêm trọng là có thực.
Các hoạt động khai thác đất hiếm phi pháp tại Miến Điện, phần đông là chủ đầu tư Trung Quốc, đang làm nhiều nhánh sông đi từ Miến Điện đến các vùng phía bắc Thái Lan bị nhiễm độc thạch tín (arsenic) do tình trạng đổ bừa bãi nước thải xử lý đất hiếm ra sông mà không được kiểm soát.
Chủ nghĩa thực dân môi trường
Phóng sự dài do đài SBS News của Úc thực hiện cho thấy sông Kok nhuộm một màu cam kỳ lạ, cá chết nổi nhiều bất thường và bị biến dạng, cũng như là nhiều trường hợp mắc bệnh đã được ghi nhận ở nhiều ngư dân sống dọc theo con sông. Theo thổ lộ của anh Gob Kotekham, người Thái Lan, 42 tuổi với kênh SBS News, « có điều gì rất lạ đang xảy ra : những nốt phát ban xuất hiện trên người và chúng cứ lan rộng. Chúng làm tôi mẩn ngứa. Tình trạng này kéo dài hơn hai tháng, tôi chưa bao giờ cảm thấy như vậy trước đây ».
Đối với nhà báo Guillaume Pitron, đây là những yếu tố các nhà hoạch định chính sách môi trường nên tính đến. « Tôi có cảm giác là mọi thứ nhà mình đều sạch sẽ nhưng trên thực tế là có một ai đó đang trả những cái giá, những khoản phí ở một đầu khác trên thế giới cách xa chúng ta hàng nghìn km mà không ai đặt chân đến cả. Một cái giá "vô hình" nhưng có thực và không thể bỏ qua. Chúng có nguy cơ làm cho quá trình chuyển đổi năng lượng còn khó chấp nhận hơn trên bình diện xã hội nếu chúng ta không làm điều gì đó để giảm nhẹ ».
Nhìn chung, đất hiếm là cần thiết cho công nghệ xanh. Nhưng quá trình chế biến nó vốn quá ô nhiễm và nguy hiểm cho các nước Bắc Bán cầu, giờ đây chủ yếu được tiến hành ở các nước Nam bán cầu. Nhà nghiên cứu Simone Lobach, khi trả lời đặc phái viên đài RFI Jeanne Richard, nhân hội nghị COP 30 tại Belem, không ngần ngại ví hiện tượng này là « chủ nghĩa thực dân môi trường » !
(Theo RFI)
