Getty Images/BBC
Không ít công ty sản xuất ở Việt Nam đã có thể phần nào thở phào nhẹ nhõm khi ông Donald Trump hạ mức thuế đối ứng từ 46% xuống còn 20%.
Trước đó ba tháng, cũng chính họ đã cảm thấy bàng hoàng khi "Ngày Giải phóng" của ông Trump đã giáng một đòn đau vào nỗ lực chọn Việt Nam làm cứ điểm sản xuất vì mức thuế dường như bít cửa hàng hóa của họ đến Mỹ.
Gió dường như đang đổi chiều khi vào tối 2/7, Tổng thống Mỹ Donald Trump thông báo trên mạng xã hội rằng ông đã chốt được một thỏa thuận thương mại với Việt Nam.
Theo đó, "Việt Nam sẽ trả cho Hoa Kỳ mức thuế 20% đối với mọi hàng hóa được đưa vào Lãnh thổ của chúng tôi, và 40% đối với mọi hàng hóa trung chuyển".
Nhưng khi nhiều người khấp khởi vì mức thuế đối ứng được giảm đi đáng kể, thì cũng là lúc nhiều câu hỏi và băn khoăn được đặt ra.
Ông Marco Forster - giám đốc về ASEAN của công ty Dezan Shira & Associates, làm việc tại TP HCM - nhận định với BBC News Tiếng Việt, rằng: "Việc mức thuế 20% được đàm phán cuối cùng là lợi hay hại cho Việt Nam sẽ phụ thuộc rất lớn vào việc liệu (và ở mức độ nào) các thị trường trong chiến lược 'Trung Quốc + 1' khác có đạt được những thỏa thuận tương tự hay không, và những thỏa thuận đó sẽ được so sánh với kết quả của Việt Nam như thế nào".
Quan sát từ bài đăng của Tổng thống Trump, ông Forster đánh giá Mỹ vẫn tiếp tục chuyển dịch sản xuất hàng tiêu dùng sang Việt Nam nhưng muốn đóng vai trò lớn hơn trong chuỗi cung ứng của mình.
Chuyên gia phân tách này nói rằng dù ngành sản xuất Việt Nam vẫn phụ thuộc lớn vào nguyên liệu Trung Quốc, việc được miễn thuế khi nhập cảng các mặt hàng quan trọng như bông và linh kiện điện tử từ Mỹ sẽ hỗ trợ đáng kể các ngành dệt may và điện tử.
"Dù sao chúng ta sẽ phải chờ đến ngày 9/7 để có thêm thông tin rõ ràng."
Thậm chí, có sự thất vọng về con số 20% này, theo chia sẻ của Joe Jurken, Giám đốc điều hành The ABC Group, với Reuters.
Ông Jurken cho rằng mức thuế này thu hẹp khoảng cách với Trung Quốc (nước đang chịu thuế 55%) và có thể khiến một số thương hiệu tiếp tục sản xuất tại Trung Quốc thay vì chuyển sang Việt Nam – một quá trình tốn kém và mất thời gian.
Tiến sĩ Sven David - Giám đốc công ty tư vấn VIET Transformation Advisors có trụ sở tại TP HCM - nói với BBC rằng việc Mỹ áp mức thuế 20% đối với hàng hóa Việt Nam có thể được xem là một thành công chiến thuật đáng kể nhưng cũng đánh dấu một sự thay đổi trong cách nhìn nhận: Việt Nam không còn đơn thuần là một địa điểm sản xuất thân thiện trong friend-shoring, mà đang ngày càng được coi là một đối thủ cạnh tranh chiến lược.
Friend-shoring nghĩa là các công ty hoặc quốc gia chuyển sản xuất, chuỗi cung ứng hay đầu tư đến những quốc gia "đáng tin cậy" hoặc "đồng minh" nhằm giảm thiểu rủi ro về an ninh kinh tế, chánh trị hoặc địa chánh trị.
Vì sao Việt Nam dễ tổn thương?
Các chuyên gia đánh giá xuất cảng Việt Nam đang phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Mỹ. Ảnh: Getty Images
Nếu buộc phải chỉ ra sai lầm nào mà Việt Nam đã mắc phải, thì đó chính là yếu tố vốn từng giúp nhiều người dân ở đây trở nên giàu có, theo phân tách của ông Forster.
"Điều này không phải là một bước đi sai lầm có chủ đích, mà đúng hơn là một điểm yếu cố hữu trong mô hình kinh tế hướng xuất cảng cực kỳ thành công của Việt Nam. Điểm yếu đó là gì? Đó là việc Việt Nam đã quá tập trung vào thị trường Mỹ và bị ràng buộc sâu sắc, không có giải pháp thay thế, và phụ thuộc vào các chuỗi cung ứng lấy Trung Quốc làm trung tâm."
Điểm yếu này trở nên dễ tổn thương hơn khi chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy.
Hàng hóa trung chuyển mà ông Trump nhắc đến, theo giới quan sát, là ám chỉ Trung Quốc. Chính tờ Hoàn Cầu Thời Báo thân nhà nước Trung Quốc cũng cho rằng con số đó tác động đến doanh nghiệp quốc gia này.
Các ngành chủ lực của Việt Nam như công nghệ, hay thậm chí là dệt may - phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu Trung Quốc.
Reuters đưa tin, các nhà máy dệt may tại Việt Nam phụ thuộc lớn vào sợi, vải polyester và các loại phụ kiện như cúc và khóa kéo nhập cảng từ nước láng giềng phương Bắc.
Hàng trung chuyển được cho là nói về một sản phẩm chủ yếu được sản xuất tại Trung Quốc, vận chuyển đến Việt Nam rồi dán nhãn lại và xuất cảng như hàng hóa sản xuất tại Việt Nam.
Washington từ lâu cáo buộc Hà Nội tạo điều kiện cho việc trung chuyển nhằm giúp hàng hóa Trung Quốc né tránh quan thuế Mỹ.
Thậm chí Bộ trưởng Bộ Thương mại Mỹ Howard Lutnick còn cho rằng Việt Nam mua 90 tỷ USD từ Trung Quốc, nâng giá, rồi chuyển đến Mỹ.
Sáu tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất cảng sang Mỹ lượng hàng trị giá 70,91 tỷ USD, trong khi nhập cảng 8,91 tỷ USD từ thị trường này. Như vậy, Việt Nam đang có mức xuất siêu đạt 62 tỷ USD, tăng 29,1% so với cùng kỳ năm trước.
Theo số liệu của Cục Thống kê Việt Nam công bố vào ngày 5/7, nhập cảng từ Trung Quốc đạt 84,7 tỷ USD trong khi chỉ xuất cảng qua thị trường này 19,1 tỷ USD. Mức nhập siêu từ Trung Quốc như vậy đạt 55,6 tỷ USD, tăng đến 42,2%.
Sự tương đồng giữa hàng hóa Việt Nam xuất cảng sang Mỹ và hàng hóa Trung Quốc sang Việt Nam trong nhiều năm qua càng khuếch đại sự nghi ngờ của Washington hơn nữa.
Bên cạnh đó, sự phụ thuộc vào Trung Quốc, đặc biệt trong các ngành thâm dụng lao động, đã trở thành một gánh nặng chiến lược khi Mỹ bắt đầu dùng chánh sách thương mại làm công cụ.
Đối với chuyên gia phân tách thương mại, Robert Law, làm việc tại công ty Asialink Business, chánh sách quan thuế hiện nay liên quan nhiều hơn đến quan điểm của chánh quyền Trump về thương mại hơn là bất kỳ điều gì khác mà Việt Nam đã làm.
Giới quan sát đang có chung nhận định: Việt Nam, trớ trêu thay, có thể đang trở thành nạn nhân cho chính thành công của mình.
Giáo sư Zachary Abuza từ trường Nation War College, Mỹ - người có nhiều năm quan sát Việt Nam - nhận định với BBC News Tiếng Việt hồi đầu tháng Tư, không lâu sau khi ông Trump công bố thuế đối xứng toàn cầu, rằng: "Việt Nam có lẽ đã mắc phải một sai lầm chiến lược nghiêm trọng khi để kim ngạch nhập cảng từ Mỹ gần như 'giậm chân tại chỗ' nhiều năm qua, trong khi xuất cảng của họ sang Mỹ lại tăng vọt."
Năm 2016, Mỹ xuất sang Việt Nam khoảng 10 tỷ USD hàng hóa và nhập khoảng 42 tỷ USD ở chiều ngược lại.
Tám năm sau, vào năm 2024, hai con số này lần lượt là 13 tỷ USD và 136 tỷ USD, theo số liệu từ Bộ Thương mại Mỹ.
Yêu cầu thay đổi chiến lược
Quan thuế Mỹ đang đe dọa mục tiêu tăng trưởng 8% năm 2025 mà các lãnh đạo Việt Nam đặt ra. Ảnh: Getty Images
Việt Nam, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất cảng, buộc phải có những thay đổi lớn nếu mất đi khách hàng Mỹ - thị trường chiếm tới 1/3 kim ngạch xuất cảng của quốc gia Đông Nam Á.
Giới lãnh đạo Việt Nam đã liên tục đưa ra những nhượng bộ không tiền khoáng hậu đối với Mỹ, thậm chí sẵn sàng đưa mức thuế nhập cảng hàng Mỹ xuống mức 0%.
Thế nhưng, vì mức thâm hụt khổng lồ, Hà Nội không có nhiều lợi thế đàm phán trước Washington.
"Mức thuế [20%] này đang tạo ra một áp lực chi phí đáng kể lên mô hình xuất cảng bấy lâu nay vẫn dựa vào việc được ưu tiên buôn bán vào thị trường Mỹ. Từ góc độ chiến lược kinh doanh, đây không phải là một cuộc khủng hoảng, mà là một tín hiệu – một sự điều chỉnh, chứ không phải thảm họa," ông David nói với BBC.
Để không thụ động trước một rủi ro thương mại tương tự trong tương lại, nhiều chuyên gia đồng tình rằng Việt Nam cần có sự điều chỉnh bánh lái con tàu kinh tế vốn từng cho họ trái ngọt nhiều năm qua.
"Thỏa thuận này giúp Việt Nam có thêm thời gian, nhưng không phải là sự chắc chắn lâu dài. Khoảng thời gian quý báu đó cần được sử dụng một cách khôn ngoan: để củng cố vị thế thể chế, đa dạng hóa rủi ro kinh tế, và chuẩn bị sẵn sàng cho một hệ thống thương mại toàn cầu biến động hơn trong tương lai," Tiến sĩ Sven David nói thêm.
Hà Nội có thể buộc phải thích nghi nhanh chóng, đa dạng hóa không ngừng và chuẩn bị cho một thế giới mà chánh sách thương mại vừa là lá chắn vừa là vũ khí.
Sự thay đổi là điều cần thiết để không chỉ giải quyết vấn đề hiện nay mà còn đối phó với những tình huống tương tự trong tương lai.
Việt Nam cần chủ động dự đoán những thay đổi chánh sách ở nước ngoài để điều chỉnh vị thế của mình cho phù hợp, theo ông David.
"Trở thành đối tác được ưu tiên lựa chọn giờ đây không chỉ dựa vào vị trí địa lý hay chi phí, mà còn là sự đáng tin cậy về thể chế và tính nhất quán trong chiến lược."
Chuyên gia phân tách Robert Law cũng đồng tình khi cho rằng Chính phủ Việt Nam có thể xem xét các sáng kiến nhằm phát triển thị trường xuất cảng mới, như tổ chức các phái đoàn xúc tiến thương mại, hỗ trợ chi phí nghiên cứu thị trường chiến lược và cung cấp tín dụng xuất cảng.
Việt Nam đã thực sự chủ động trong việc đa dạng hóa thị trường, tận dụng mạng lưới Hiệp định thương mại tự do (FTA) rộng lớn của mình. Điều này mang lại sự ổn định dựa trên luật lệ và quyền có được sự ưu đãi đi vào các thị trường rộng lớn.
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã mang lại những lợi ích đáng kể, thúc đẩy xuất cảng sang các thị trường mới như Canada, Mexico và Peru, đồng thời giúp Việt Nam giành được thị phần lớn cho các sản phẩm như hải sản ở Úc.
Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Việt Nam - UAE (CEPA) và việc nâng cấp quan hệ với Brazil, tiếp tục mở ra những khu vực tiềm năng, sinh lợi chưa được khai thác.
Tuy nhiên, khoảng trống mà thị trường Mỹ, nếu mất đi, sẽ là quá lớn và khó có thể lấp đầy.
Theo ông Forster, việc chuyển hướng lượng lớn hàng hóa đang xuất sang Mỹ sang các thị trường mới trong thời gian ngắn là một nhiệm vụ khổng lồ. Việc tái cấu trúc các chuỗi cung ứng đã ăn sâu, vốn lấy Trung Quốc làm trung tâm, rất phức tạp và tốn kém.
Ông Forster nhận xét, "Ngay cả khi có ưu đãi quan thuế, các công ty xuất cảng Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều yếu tố khác như cạnh tranh đa dạng, sở thích tiêu dùng khác nhau và các rào cản phi quan thuế dai dẳng ở các khu vực mới".
Để thúc đẩy đa dạng hóa thị trường, ông Forster cho rằng chính phủ Việt Nam nên kết nối các doanh nghiệp với khách hàng lớn tại thị trường mới, đưa ra các ưu đãi thuế cho việc thâm nhập thị trường, và tăng cường vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp để họ cung cấp thông tin thị trường và xúc tiến thương mại quan trọng.
Bên cạnh đó, cải cách logistics như nâng cấp hạ tầng và đơn giản hóa thủ tục hải quan là những yếu tố thiết yếu để giảm chi phí hoạt động và tăng cường năng lực cạnh tranh.
"Những nỗ lực mạnh mẽ trong việc chống chuyển tải hàng hóa bất hợp pháp thông qua tăng cường minh bạch và xác minh nguồn gốc nghiêm ngặt hơn, cùng với việc duy trì quan hệ ngoại giao thực dụng với Mỹ, là cực kỳ quan trọng để bảo vệ tính toàn vẹn thương mại của Việt Nam và thúc đẩy giảm quan thuế."
Các cải cách then chốt đối với Việt Nam mà bài phân tách đăng tải hôm 23/6 trên trang mạng của tổ chức nghiên cứu East Asia Forum (Úc) đề xuất trong đó có bãi bỏ các quy định về hệ thống cấp phép, chuyển hướng tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua cải cách ngân hàng, miễn thuế cho các hộ kinh doanh.
Ông Law, tại Asialink Business, cho rằng Việt Nam đang đi đúng hướng với những nỗ lực củng cố bộ máy hành chánh và cấu trúc chính quyền. Mặc dù những thay đổi này cần thời gian để đi vào ổn định, nhưng sẽ tạo nền tảng vững chắc cho thành công lâu dài của đất nước.
Ông Law nói, "Với việc gần đây vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển quốc gia đã được công nhận, Việt Nam đang thực sự đi đúng hướng".
Tiến sĩ Sven David cho rằng thay vì chỉ dựa vào việc được ưu đãi khi khi buôn bán tại các thị trường, Việt Nam nên hướng đến việc xây dựng sức đề kháng và năng lực phục hồi.
Theo ông, đa dạng hóa thị trường chỉ là một giải pháp tình thế, còn tầm nhìn chiến lược dài hạn là phải chuẩn bị và củng cố cấu trúc bên trong.
Ông David kết luận, "Thay vì tìm cách bảo vệ mô hình hiện có, ưu tiên của Việt Nam nên là chuẩn bị sẵn sàng cho mô hình phát triển kế tiếp. Các cơ quan hoạch định chánh sách cần thúc đẩy sự chuyển mình và đổi mới, thay vì cố gắng cô lập nền kinh tế khỏi những thay đổi bên ngoài."
(Theo BBC)