Xem ra, “lựa chọn hạt nhân” của Bắc Kinh bằng cách “vũ khí hóa” việc xuất khẩu dược phẩm sang Hoa Kỳ cũng lại là một “giấc mộng Trung Hoa” khác, vốn khó có thể thành hiện thực (Ảnh: Olivier Douliery-Pool/Getty Images)

 

 

 

Khi Hoa Kỳ tăng cường tấn công các công ty công nghệ Trung Quốc, các cố vấn chính phủ ở Bắc Kinh bắt đầu tranh luận về "lựa chọn hạt nhân": Ngăn Washington tiếp cận nguồn dược phẩm của nước này. Trớ trêu thay, Washington lại cho rằng Bắc Kinh đang tung ra "đòn tự sát".

 

 

Gần đây, chính quyền Tổng thống Trump đã tăng cường ngăn chặn ngành bán dẫn của Trung Quốc có được công nghệ của Mỹ, nguyên nhân là vì Washington cho rằng các công ty bị trừng phạt, trong đó có Huawei, liên kết với Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) trong việc hỗ trợ, giám sát người dùng toàn cầu, đánh cắp dữ liệu kinh doanh và cá nhân. 

 

 

Đây là sáng kiến ​​"Mạng lưới sạch" của Washington để loại trừ các công ty công nghệ Trung Quốc bị coi là mối đe dọa an ninh quốc gia. Các giám đốc điều hành của Huawei gần đây cũng đã thừa nhận rằng lệnh trừng phạt của Mỹ là một “đòn chí mạng” đối với Huawei. Công nghệ chip của Trung Quốc còn cách biệt quá xa so với trình độ quốc tế, chủ yếu phụ thuộc vào Mỹ, sản xuất trong nước không thể đáp ứng được nhu cầu.

 

 

 Đòn trả đũa của Bắc Kinh trong lĩnh vực dược phẩm

Khi Mỹ gia tăng đòn tấn công nhằm vào các công ty công nghệ Trung Quốc và nguy cơ hai nước tách rời nền kinh tế ngày một lớn dần, những cố vấn chính phủ ở Bắc Kinh đã bắt đầu tranh luận về một lựa chọn trả đũa mang tính “hạt nhân”: Cắt đứt việc xuất khẩu dược phẩm sang Hoa Kỳ.

 

 

 Ý tưởng được đưa ra bởi Li Daokui, một cố vấn chính phủ Trung Quốc, người đã trả lời truyền thông địa phương rằng việc hạn chế xuất khẩu thuốc sang Mỹ có thể là đòn trả đũa hợp pháp đối với các biện pháp kiểm soát xuất khẩu của Washington liên quan đến công nghệ và phần mềm Mỹ.

 

 

Vào năm 2019, ông Li cũng đã gợi ý Trung Quốc có thể hạn chế xuất khẩu thuốc kháng sinh sang Mỹ để trả đũa cuộc chiến thương mại do Washington phát động.

 

 

Sự phục thuộc về dược phẩm của các nước vào Trung Quốc

Trên thực tế, trong chưa đầy 30 năm, Trung Quốc đã trở thành nước sản xuất và xuất khẩu hàng đầu thế giới các loại vitamin, thuốc kháng sinh, thuốc giảm đau, thuốc chống nhiễm trùng và corticosteroid. Ngay cả Ấn Độ, nước đứng hàng thứ hai sau Bắc Kinh về sản xuất các loại thuốc, cũng phụ thuộc vào nguồn cung ứng từ Trung Quốc để có được các hoạt chất cần thiết.

 

 

Học viện Dược phẩm Quốc gia tại Pháp đã gióng lên hồi chuông cảnh báo từ 10 năm nay. Sự thay đổi lớn đã diễn ra vào những năm 1990. Trước thời điểm đó, ngành dược phẩm châu Âu đã sản xuất 80% lượng thuốc được các nước châu Âu tiêu thụ. Ngày nay, tình hình hoàn toàn ngược lại: 80% lượng thuốc được người châu Âu tiêu thụ do Trung Quốc sản xuất. Đến nỗi Châu Âu không còn sản xuất nổi một gram paracetamol nào nữa!

 

 

Ngành công nghiệp thuốc generic Ấn Độ, cung cấp khoảng 40% khối lượng thuốc generic cho Mỹ, cũng phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc. Họ nhập khẩu đến 75% lượng API từ Trung Quốc với lý do duy nhất là chúng rẻ hơn, theo một báo cáo được đăng trên tạp chí eHealth Online.

 

 

Tình hình hầu như cũng không sáng sủa hơn đối với Hoa Kỳ. Từ thuốc giảm đau đến thuốc điều trị HIV, Mỹ đều phụ thuộc vào nguồn dược phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc nhờ hoạt động gia công quy mô lớn từ những năm 1990.

 

 

Trong khi các hãng dược phẩm Mỹ vẫn duy trì các cơ sở nghiên cứu trong nước, những nhà máy sản xuất các loại thuốc generic giá rẻ đang dần biến mất.

 

 

Nhiều thành phần chính của thuốc kháng sinh không còn được sản xuất trong nước. Nhà sản xuất nguyên liệu penicillin cuối cùng có trụ sở tại Mỹ đã đóng cửa vào năm 2004.

 

 

Trung Quốc là nhà sản xuất dược phẩm hoạt tính (API) lớn nhất thế giới. Đây là những thành phần tiền chất được sử dụng trong các loại thuốc generic. Họ sở hữu hơn 11.000 nhà sản xuất cung cấp dược phẩm, trong đó Ấn Độ, Mỹ, Nhật Bản là ba thị trường xuất khẩu hàng đầu.

 

 

Theo số liệu của Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ (ITC) vào năm ngoái, khoảng 40% lượng thuốc kháng sinh nhập khẩu vào Mỹ đến từ Trung Quốc, bao gồm 90% là chloramphenicol, 93% tetracyclines; 52% penicillin.

 

 

 Ý tưởng phi đạo đức 

Các chuyên gia khác cho rằng việc hạn chế xuất khẩu thuốc sang Mỹ là ý tưởng vô đạo đức, trong bối cảnh Mỹ gần như không thể ngay lập tức chuyển hoạt động sản xuất thuốc về nước hay tìm nguồn cung thay thế, Shi Yinhong, giáo sư quan hệ quốc tế tại Đại học Renmin, cố vấn chính phủ Trung Quốc nhận định.

 

 

Theo Zhang Weiwei, giáo sư quan hệ quốc tế tại Đại học Phục Đán, việc Mỹ phụ thuộc vào Trung Quốc trong việc cung cấp một số loại thuốc cơ bản thực sự là điểm yếu chết người với Washington và là lợi thế lớn cho Bắc Kinh. Hồi đầu năm, ông Zhang cho rằng "tất cả các bệnh viện ở Mỹ đều sẽ phải đóng cửa nếu không có nguồn cung từ Trung Quốc", do Mỹ phụ thuộc quá nhiều vào thuốc kháng sinh Trung Quốc.

 

 

Với 97% các loại thuốc kháng sinh đến từ đối thủ châu Á, giữa cuộc khủng hoảng Trung-Mỹ, Bắc Kinh cho rằng Washington có lý do để “rùng mình”. Trên thực tế, hàng ngàn loại thuốc được tiêu thụ ở Hoa Kỳ đều phụ thuộc vào Trung Quốc về nguồn cung ứng các hoạt chất. 

 

 

Hãng thông tấn chính thức của Trung Quốc Tân Hoa Xã vào tháng 4/2019 châm chọc rằng: “Nếu bạn là người Trung Quốc và muốn tiêu diệt chúng tôi, thì chỉ cần không gửi thuốc kháng sinh cho chúng tôi nữa”. 

 

Tuy nhiên, ý tưởng này không thực tế.

 

‘Con dao hai lưỡi’ dành cho Bắc Kinh khi Washington luôn có nhiều ‘quân bài’ hơn

 

Shi Yinhong cho biết “Ý tưởng này không hề thực tế. Nó chỉ càng khiến Mỹ giáng đòn mạnh hơn nhằm vào các công ty công nghệ Trung Quốc”.

 

 

Ông Shi nói thêm rằng bản thân các công ty Trung Quốc sẽ chịu thiệt hại bởi nhiều công ty phụ thuộc rất lớn vào xuất khẩu thuốc sang Mỹ và họ "sẽ chết" nếu đánh mất các khách hàng Mỹ.

 

 

Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) không có thông tin cụ thể về khối lượng API được sản xuất tại Trung Quốc. Nhưng trong một bức thư gửi FDA hồi tháng 8 năm ngoái, Chủ tịch Ủy ban Tài chính Thượng viện Chuck Grassley ước tính khoảng 80% lượng API được dùng tại Mỹ là do Trung Quốc và Ấn Độ sản xuất.

 

 

Năm ngoái, Trung Quốc xuất khẩu 9,8 tỷ USD vật tư y tế và 7,4 tỷ USD hóa chất hữu cơ, bao gồm cả các thành phần dược phẩm hoạt tính và thuốc kháng sinh sang Mỹ, theo số liệu từ Hải quan Trung Quốc.

 

 

"Nếu Trung Quốc cắt đứt nguồn cung dược phẩm, hành động đó sẽ khiến Mỹ thêm phẫn nộ", Shi nói. "Nếu cả hai quốc gia đều chọn cách phản ứng ăn miếng trả miếng, Mỹ luôn là bên có nhiều quân bài hơn so với Trung Quốc".

 

 

Việc hạn chế xuất khẩu y tế gần như chắc chắn sẽ khiến các công ty dược phẩm nước ngoài giảm mạnh hoặc chuyển hoàn toàn hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc, giáo sư Zhao Daojiong từ Trường Nghiên cứu Quốc tế, Đại học Bắc Kinh nhận xét.

 

 

"Chặn đường tiếp cận nguồn cung dược phẩm là một đề xuất sẽ khiến chúng ta tự chuốc lấy thất bại", ông nhấn mạnh. "Việc tách rời ngành công nghiệp dược phẩm một cách vô cớ và với động cơ chính trị sẽ chỉ gây tổn hại cho bên khởi xướng vì nó đồng nghĩa với việc mất đi các nguyên liệu và bí quyết của nước ngoài đã được chuyển giao".

 

 

“Một khi Trung Quốc ngừng xuất khẩu thuốc sang Mỹ, các công ty dược sẽ phải chuyển dịch hoạt động sản xuất ra nước ngoài. Đó là con dao hai lưỡi”, ông chia sẻ.

 

 

Washington cho rằng Bắc Kinh muốn ra 'đòn tự sát'

An ninh chuỗi cung ứng dược phẩm đã nổi lên như một chủ đề được quan tâm lớn trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Cả Tổng thống Donald Trump và ứng viên tổng thống đảng Dân chủ Joe Biden đều hứa sẽ giải quyết vấn đề này sau khi đại dịch virus viêm phổi Vũ Hán làm lộ ra các lỗ hổng trong ngành dược phẩm và thiết bị y tế của Mỹ.

 

 

Mỹ từ lâu đã ý thức được việc họ phụ thuộc quá mức vào nguồn nhập khẩu dược phẩm từ Trung Quốc. Năm ngoái, Ủy ban Đánh giá An ninh và Kinh tế Mỹ - Trung coi đây là một "rủi ro an ninh".

 

 

Hồi tháng 7/2020, Thượng nghị sĩ Marco Rubio và Elizabeth Warren đề xuất một dự luật lưỡng đảng mang tên Đạo luật Đánh giá Chuỗi cung ứng Dược phẩm Mỹ, yêu cầu nghiên cứu về sự phụ thuộc của Mỹ đối với các nguồn cung dược phẩm nước ngoài, cảnh báo nó có thể "làm giảm" năng lực trong nước và "làm trầm trọng thêm" tình trạng phụ thuộc quá mức vào các quốc gia khác.

 

 

Rachna Shah, giáo sư công tác tại Đại học Minnesota, Mỹ, nói: “Nếu Trung Quốc quyết 'chơi rắn' thì Mỹ có thể tự mình sản xuất dược phẩm. Sẽ mất thời gian để bắt đầu lại từ con số 0 nhưng cũng không vấn đề gì, vì Mỹ có năng lực nghiên cứu”.

 

 

Bà Shah nhắc đến việc Mỹ có thể thay thế Trung Quốc để trở thành nhà sản xuất dược phẩm hoạt tính (API) lớn nhất thế giới.

 

Bà Shah nói “Đó là cách duy nhất để hạn chế lệ thuộc vào thuốc men nhập khẩu từ Trung Quốc”,

“Mỹ nắm được cách sản xuất các nguyên liệu cho thuốc men, xây dựng các nhà máy sản xuất ngay trên đất Mỹ sẽ không mất nhiều thời gian”.

 

 

Ngoài ra, kể từ khi dịch bệnh viêm phổi Vũ Hán lây lan ra khắp thế giới sau mấy tháng, Mỹ đã nỗ lực tổ chức lại chuỗi cung ứng trong nước và Trung Quốc đã không thể khống chế được Mỹ về lĩnh vực dược phẩm.

 

 

Tổng thống Mỹ Donald Trump đã đề xuất thoát khỏi sự phụ thuộc vào Trung Quốc trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có y dược. Đầu tiên, Mỹ thông qua “Đạo luật sản xuất quốc phòng” để tăng cường sản xuất khẩu trang và thiết bị y tế của đất nước, đồng thời ký một lệnh hành pháp vào đầu tháng 8/2020 để giúp tăng cường việc sản xuất thuốc, thiết bị y tế, đồ bảo hộ và các sản phẩm y tế khác trong nước.

 

 

Xem ra, “lựa chọn hạt nhân” của Bắc Kinh bằng cách “vũ khí hóa” việc xuất khẩu dược phẩm sang Hoa Kỳ cũng lại là một “giấc mộng Trung Hoa” khác, vốn khó có thể thành hiện thực

(Theo dkn.tv)