Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh đã lãnh đạo đội ngũ khoa học gia gần 100 người chế tạo ra quả bom áp nhiệt BLU-118/B. Ảnh: Ánh Dương/BBC News

 

 

 

Thứ Ba ngày 11/9/2001, có 19 kẻ khủng bố Al-Qaeda đã cướp bốn phi cơ thương mại tấn công hàng loạt địa điểm mang tính biểu tượng của nước Mỹ. Trong 102 phút, gần 3.000 người đã thiệt mạng.

 

 

Một tháng sau đó, khoa học gia gốc Việt Dương Nguyệt Ánh nhận được điện thoại từ Ngũ Giác Đài, yêu cầu rút ngắn chương trình chế tạo một loại chất nổ mới là bom áp nhiệt (thermobaric) dự kiến kéo dài 5 năm thành "làm ngay, làm gấp".

 

Bà Ánh, người được biết với danh xưng The Bomb Lady (Quý bà Bom), vào thời điểm ấy giữ vai trò lãnh đạo tất cả những chương trình nghiên cứu và chế tạo chất nổ cho Hải quân Mỹ, kể lại, “Tổng thống George W. Bush khi đó quyết định phải đem quân Mỹ vào A Phú Hãn [Afghanistan] ngay lập tức để diệt khủng bố".

 

Bà Ánh nói với BBC News Tiếng Việt: "Chúng tôi, cả toán khoa học gia đều hiểu rằng một khi mình phải đốt giai đoạn từ một chương trình 5 năm xuống còn vài tuần hay vài tháng thì đó là một sự mạo hiểm và xác suất thành công sẽ rất thấp,"

"Nhưng khi nghĩ đến bao nhiêu dân Mỹ đã chết oan trong vụ 11/9, rồi bao nhiêu xương máu lính Mỹ sắp sửa phải đổ ra ở A Phú Hãn thì tất cả chúng tôi đều quyết tâm phải làm cho bằng được."

 

 

 

Kết quả là chỉ trong vòng 67 ngày, bà Ánh cùng đội ngũ khoa học gia đã chế tạo ra 11 quả bom áp nhiệt đầu tiên BLU-118/B, được Không quân Mỹ xử dụng để xuyên sâu vào những không gian chật hẹp như hệ thống đường hầm dưới lòng đất mà Al-Qaeda trấn đóng ở A Phú Hãn.

 

Đến tháng 6/2025, khi Tổng thống Mỹ Donald Trump ra lệnh thả 14 quả bom xuyên boongke GBU-57 vào ba cơ sở phân hạch nguyên tử ở Iran, tên tuổi bà Dương Nguyệt Ánh lại được xướng lên.

 

Mạng xã hội lan truyền thông tin cho rằng bà là tác giả của loại bom xuyên phá mà Mỹ vừa thả xuống Iran và bà đã được Tổng thống Trump tham vấn trước khi ra lệnh tấn công Iran.

 

Trao đổi với BBC News Việt ngữ, bà Ánh nói rằng loại bom Mỹ thả xuống Iran không phải là công trình của bà.

 

Song bà cho biết cả ba chất nổ, bao gồm hai loại dùng trong bom GBU-57 là AFX-757 của Không quân, PBXN-114 của Hải quân Mỹ và PBXN-113 dùng trong loại bom áp nhiệt BLU-118/B của bà, có cùng xuất xứ.

 

Bà cho biết, "Đó là chương trình nghiên cứu chế tạo một loại chất nổ không nhạy mới và vẫn có công suất cao, được đề xướng bởi các khoa học gia Hải quân từ đầu thập niên 90,"

"Đến cuối thập niên 90, khi trở thành người lãnh đạo tất cả các chương trình chế tạo chất nổ cho Hải quân thì tôi đã có cơ hội để kiện toàn cái kỹ thuật đó."

 

Hiểu một cách nôm na, đó là kỹ thuật làm sao để quả bom chỉ nổ sau khi đã lộn vòng ở trên không nhiều lần, hoặc đã lọt vào trong các mục tiêu ở sâu dưới lòng đất mà vẫn có công suất cao.

 

Hành trình tỵ nạn sang Mỹ, từ bỏ giấc mơ văn chương để đến với khoa học

 

Cuối tháng 4/1975, gia đình bà Ánh đã chạy khỏi Việt Nam trên một chiếc trực thăng do chính anh trai của bà - một phi công Việt Nam Cộng hòa - lái ngay trước khi khi Sài Gòn thất thủ.

 

Chiếc trực thăng đáp xuống được một tàu hải quân của Việt Nam Cộng hòa ở ngoài khơi, gia đình họ cùng những người tỵ nạn lênh đênh trên biển vài ngày thì được phép cập vào căn cứ hải quân của Mỹ ở Vịnh Subic, Phi Luật Tân.

 

Sau khi ở trại tạm trú cho người tỵ nạn mà chánh phủ Mỹ gấp rút dựng lên tại đó, gia đình bà Ánh tiếp tục được chuyển qua thêm vài trại nữa ở đảo Guam, lãnh thổ của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương.

 

Đến mùa thu 1975, gia đình bà được đưa sang Mỹ, kịp để anh trai bà được cứu sống từ cơn bệnh thập tử nhất sinh.

 

Bà Ánh kể lại, "Giữa tháng 10/1975, gia đình tôi được nhà thờ First Baptist Church ở Hoa Thịnh Đốn bảo trợ cho ra khỏi trại tỵ nạn. Nhà thờ vô cùng tử tế, họ đã hết lòng bảo bọc mặc dù chúng tôi là người ngoại đạo,"

"Ra khỏi trại là nhà thờ đem thẳng tôi và gia đình lên Nữu Ước để mẹ tôi có thể thực hiện ghép thận của bà cho anh tôi lúc đó bị suy thận, thành ra tôi không được đi học ngay lúc đó mà phải chờ đến đầu tháng 3/1976, sau khi ca mổ đã thành công, nhà thờ đưa chúng tôi từ Nữu Ước về tiểu bang Maryland thì tôi mới được đi học lại."

 

Đi học trễ nửa năm, lạ nước lạ cái, cộng với vốn tiếng Anh "chỉ khoảng 50 từ" đã khiến cho những tháng ngày đầu tiên đến lớp của cô gái 15 tuổi đến từ Việt Nam trở nên vất vả.

 

Bà kể, "Học sinh ở trong trường lúc đó đa số chỉ đứng xa nhìn tôi bằng con mắt tò mò, nhưng thiểu số thì kì thị ra mặt, cứ đi theo trêu chọc tôi và dùng những lời lẽ rất miệt thị”.

"Ngày đó tôi mang trong lòng một sự tự ái dân tộc vô cùng to lớn, tôi tưởng tượng như là mình đang đeo trên lưng cái cờ vàng ba sọc đỏ. Thành ra tôi vô cùng tức tối và tự nhủ là mình phải làm sao học thật giỏi để có thể qua mặt được hết những người kì thị mình, để không ai có thể kinh thường được người Việt Nam."

 

Nhưng chỉ riêng quyết tâm là không đủ, chính cha của bà đã khuyên người con gái mê văn chương, năm nào cũng được phần thưởng hạng nhất ở trường Lê Quý Đôn, Sài Gòn, phải hiểu rõ những ưu khuyết điểm khi chuyển sang một môi trường mới cách nửa vòng trái đất.

 

"Tôi đã từng mơ là khi lớn lên sẽ trở thành một nhà văn nổi tiếng, nhưng bất ngờ tôi bị bứng ra khỏi cái gốc Việt Nam của mình, trở thành một người khố rách áo ôm. Bấy giờ ở trong một trường học Mỹ thì văn chương không thể nào là sở trường của tôi được nữa, nhất là với vốn tiếng Anh lõm bõm của tôi, mà phải chọn theo toán, lý, hóa…"

Nữ sinh Dương Nguyệt Ánh khi còn học trường Lê Quý Đôn ở Sài Gòn. Ảnh: Ánh Dương

 

 

Quyết định đó đã khiến bà nhiều đêm khóc thầm vì tin rằng chỉ có văn chương mới chắp cánh cho trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo của mình, còn các môn khoa học là khô khan và chán ngắt.

 

Nhưng chính những môn học đó đã giúp bà không mất nhiều thì giờ để học thuộc lòng mà có thời gian đi làm thêm để trang trải cuộc sống, và càng học thì bà lại càng say mê từng nguyên tắc, từng định lý được áp dụng.

 

Bà Ánh kể lại, "Điều làm tôi thỏa chí nhất là việc tôi đã thắng được cuộc chiến thầm lặng năm xưa. Tức là tôi đã qua mặt được hết những học sinh Mỹ ngày xưa kì thị tôi, miệt thị người Việt Nam, làm cho tôi mất ăn mất ngủ vì tự ái dân tộc,"

"Rốt cuộc chỉ vì mình nghèo, vì tự ái dân tộc mà đành bấm bụng bỏ văn chương theo khoa học, nhưng rồi tôi đã say mê khoa học và không hề hối tiếc”.

 

 

'Quý bà Bom' ở Ngũ Giác Đài

 

Từng lớn lên trong khói lửa bom đạn và với thân phận của một người tỵ nạn chiến tranh, bà Nguyệt Ánh luôn mang hoài bão là phải trả ơn và thương quý những người chiến sĩ của mình.

 

 

Bà tâm sự, "Tôi không bao giờ quên hoàn cảnh bi thương của những người lính Việt Nam Cộng hòa, trong đó có anh tôi là một phi công. Vào giai đoạn cuối của cuộc chiến, họ đã phải chiến đấu trong một hoàn cảnh tuyệt vọng, hết vũ khí đạn dược khi Hoa Kỳ cắt viện trợ quân sự, rồi cuối cùng bị bỏ rơi và được ra lệnh phải đầu hàng."

"Thành ra tôi không bao giờ muốn những người lính Hoa Kỳ bây giờ đang bảo vệ cho sự tự do của tôi và gia đình phải lâm vào hoàn cảnh đó”.

 

Vì vậy, sau khi ra trường, bà tìm đến và xin vào làm việc cho Naval Surface Warfare Center ở Indian Head, Maryland, một trung tâm của Hải quân Mỹ chuyên nghiên cứu, chế tạo những loại nhiên liệu cho hỏa tiễn, thuốc súng, đạn đại bác, chất nổ cho nhiều loại võ khí khác nhau cho quân đội Hoa Kỳ.

 

Bà cho biết, "Rất may mắn là tôi đã tình cờ vào được một nơi quy tụ toàn những khoa học gia ưu tú hàng đầu của Hoa Kỳ trong lãnh vực chế tạo chất nổ. Thành ra ngay từ đầu tôi đã được may mắn học hỏi từ thầy hay, bạn giỏi, rồi nghề dạy nghề để tôi trở thành một chuyên gia về chất nổ”.

 

Thành quả của bà là 10 chất nổ mới cho 18 loại võ khí khác nhau cho quân đội Hoa Kỳ, và được giao trọng trách lãnh đạo toàn bộ chương trình nghiên cứu và phát triển chất nổ cho Hải quân Mỹ.

 

 

Hải quân Mỹ trao Civilian Meritorious Medal (Huy chương dân sự cao quý) cho khoa học gia Dương Nguyệt Ánh (giữa). Ảnh: Ánh Dương

 

 

 

Nổi bật trong số đó là việc dẫn đầu đội ngũ khoa học gia gần 100 người chế tạo quả bom áp nhiệt BLU-118/B trong vòng 67 ngày, đã được Không quân Mỹ xử dụng trên chiến trường A Phú Hãn.

 

Để rút ngắn thời gian như vậy, bà và đội của mình đã làm việc không ngừng nghỉ và đốt giai đoạn, làm mọi thứ song song với nhau.

 

Bà giải thích, "Đốt giai đoạn có nghĩa là vừa làm bước A vừa làm bước B, nếu bước A hỏng thì quay về thử nghiệm lại, còn nếu tiên lượng đúng thì có lúc bước A xong thì bước B, bước C… đã xong luôn rồi. Cuối cùng, khi đã làm thành một quả bom lớn thì mới mang tới một hang núi tại một căn cứ của Bộ Quốc phòng ở tiểu bang Nevada để thử nghiệm sức công phá”.

 

Nhờ đó mà bà và cấp phó được Hải quân Mỹ trao Civilian Meritus Medal (Huy chương dân sự cao quý), cả toán khoa học gia và chuyên gia gần 100 người đã được tặng giải thưởng Roger Smith Team Award, và đặc biệt là cả 2.200 nhân viên tại trung tâm Naval Surface Warfare Center ở Indian Head đều nhận được bằng tuyên dương trước quân đội của Bộ trưởng Hải quân.

 

Bà cho biết, "Đó là một sự kiện chưa từng xảy ra, vì thường thì bằng tuyên dương này chỉ dành cho những đơn vị tham chiến trong quân đội chứ chưa bao giờ được tặng cho một trung tâm khoa học kỹ thuật, mà toàn nhân viên dân sự hết. Và tất cả nhân viên của Indian Head nơi tôi làm việc đều được hãnh diện đeo huy chương này trên ngực áo”.

 

Ngay sau đó, Bộ Hải quân và Bộ Quốc phòng đã cho phép các ký giả đến tận căn cứ để phỏng vấn bà Ánh và các khoa học gia về công việc chế tạo chất nổ. Ngoài những bài báo và phim tài liệu được phát trên các kênh truyền thông, rất nhiều độc giả đã gửi thư về sở làm của bà, người phụ nữ chỉ cao hơn 1m50 từ đó được công chúng biết đến với biệt danh The Bomb Lady (Quý bà Bom).

 

"Những điều đó làm cho Phòng Giao tiếp [Public Affairs Office] của Bộ Hải quân và Bộ Quốc phòng rất vui, nhưng phía NCIS [Naval Criminal Investigative Service - cơ quan điều tra tội phạm và phản gián của Hải quân] thì rất phiền lòng."

"Họ lo cho an nguy của tôi, nhất là trước hay sau mỗi chuyến công vụ ra ngoại quốc, lo sợ rằng tôi đã trở thành mục tiêu dễ dàng cho những các nỗ lực thâu thập tin tức tình báo hay khoa học kỹ thuật của Hoa Kỳ."

 

 

Bà Ánh trong một chuyến đi tới biên giới phía nam nước Mỹ. Ảnh: Ánh Dương

 

 

 

Bà Ánh cho biết danh xưng The Bomb Lady xuất phát từ cộng đồng người Việt ở Mỹ, bên cạnh đó, nữ khoa học gia này còn được đặt nhiều biệt danh khác.

 

"Thời tôi lãnh đạo đội ngũ chế tạo các loại chất nổ cho những vũ khí dưới nước của Hải quân thì ở sở gọi tôi là The Underwater Queen (Nữ hoàng dưới nước), tại vì dưới nước mà. Rồi đến khi tôi phụ trách hết cả chất nổ trên cạn và dưới nước thì họ gọi tắt là The Queen (Nữ hoàng) thôi."

"Nhưng còn một cái tên nữa mà tôi 'bị đặt' là khi tôi làm trưởng phái đoàn tiểu ban chất nổ của Hoa Kỳ ở NATO, đến Brussels sáu tháng một lần để họp với NATO. Năm đó Pháp là chủ tọa, họ đã đặt cho tôi cái tên The Iron Lady, tại vì tôi bướng bỉnh, không muốn Mỹ góp 40% cho tất cả các chương trình làm việc chung của NATO. Mỹ đóng góp vậy, còn Anh, Pháp, Đức… thì sao? Thành ra họ phải soạn lại những chương trình mà họ từ đầu đinh ninh là Mỹ sẽ đóng 40%."

 

The Iron Lady (Bà Đầm Thép) là biệt danh của bà Margaret Thatcher, Thủ tướng Anh giai đoạn từ năm 1979 tới năm 1990, người được biết đến với những chánh sách cứng rắn.

 

Bà Ánh nói, "Phải nói thật là lúc đó tôi hơi bực với phái đoàn Pháp nhưng mà nghĩ lại có lẽ The Iron Lady là danh xưng tôi thích nhất, vì khi đó tôi phải bảo vệ quyền lợi của Hoa Kỳ, không thể chỉ vì muốn người ta thích mình mà nhượng bộ để cho dân Mỹ đóng thuế nai lưng”.

 

Được ông Trump tham vấn và vinh danh?

 

Hồi tháng Sáu, khi Tổng thống Donald Trump ra lệnh cho sáu oanh tạc cơ B-2 thả 14 quả bom xuyên boongke xuống các cơ sở phân hạch  nguyên tử ở Iran, mạng xã hội lan truyền thông tin rằng đó là bom áp nhiệt do bà Ánh cùng các đồng nghiệp phát triển, xuất hiện cả ảnh ghép bà được ông Trump tham vấn và vinh danh.

 

Nói chuyện với BBC News Việt ngữ, bà Ánh nói rằng đây là tin đồn thất thiệt.

 

Bà nói, "Tôi xin xác nhận là tôi đã về hưu cả 5 năm nay rồi, thành ra tôi không có tiếp xúc nào với Tòa Bạch Ốc hay với Tổng thống Trump, và tôi không có phận sự nào trong vụ thả bom ở Iran hồi tháng Sáu vừa rồi”.

 

 

Ngoài ra, The Bomb Lady cũng cải chánh một số thông tin lan truyền trên mạng về mình. Một trong số đó là tin đồn bà đã được thăng hàm cấp tướng.

 

"Thời tôi làm cố vấn khoa học kỹ thuật cho Tư lệnh phó Hải quân ở Ngũ Giác Đài, đúng là tôi làm việc trực tiếp cho một ông tướng ba sao, một ông Phó Đô đốc Hải quân. Nhưng lúc đó cấp bậc dân sự của tôi chỉ ngang với đại tá thôi và tôi không phải là nhà binh."

 

"Sau này, khi tôi trở thành một Senior Executive trong Bộ Nội an thì chức vụ của tôi lúc đó được xem là tương đương với một tướng ba sao trong quân đội. Tương đương có nghĩa là khi đi họp hay làm việc chung với những người trong Bộ Quốc phòng chẳng hạn, thì tôi sẽ ở vị trí ngang với ai. Thành ra chức vụ của tôi lúc đó được định vị là tương đương với trung tướng, nhưng không có nghĩa tôi là trung tướng quân đội."

 

Senior Executive Service (SES) là ngạch công chức cấp cao nhất trong chánh phủ Mỹ. Các Senior Executive phải qua một quá trình tuyển chọn ở cấp quốc gia và làm việc trực tiếp dưới những công chức chánh trị (political appointee) do chánh phủ bổ nhiệm.

 

Các political appointee (bộ trưởng, thứ trưởng, phụ tá….) sẽ ra đi sau khi hết nhiệm kỳ hoặc khi tổng thống mãn nhiệm. Còn các SES vẫn tiếp tục phục vụ.

 

Bà Ánh cho biết một số người gốc Việt khác đã đạt ngạch SES, như bà Phan Thái Lương Giao (được biết tới trong vai trò lãnh đạo chế tạo hàng không mẫu hạm), ông Bùi Quang Hiển trong chức vụ lãnh đạo cao cấp về IT cho FBI, ông Nguyễn Hùng thuộc Ngân khố Quốc gia, ông Trần Kim Huy ở NASA...

 

Bên cạnh đó, bà cũng đính chính rằng bà không có bằng tiến sĩ như một số tờ báo trong nước đưa tin, mà học vị cao nhất của bà là cao học, tương đương thạc sĩ bên Việt Nam.

 

Bà giải thích, "Nhiều người thắc mắc tưởng phải là tiến sĩ mới làm được khoa học gia, nhưng mà thật ra không nhất thiết như vậy. Ngược lại, có nhiều người là tiến sĩ khoa học mà lại không làm được việc của khoa học gia vì không đủ kiến thức hoặc kinh nghiệm".

Bà Ánh khi tuyên thệ vào Senior Executive Service (SES), ngạch công chức cao cấp nhất trong chánh phủ Mỹ. Ảnh: Ánh Dương

 

 

Còn về trái bom mà Mỹ thả xuống Iran vào tháng 6/2025, bà Dương Nguyệt Ánh nói như sau:

"GBU-57 là một loại bom khổng lồ, nó nặng 30.000 pound (13.000 kg) và trong đó chứa đến 7.000 pound (hơn 3.000 kg) chất nổ. Vì vậy nó phải có hai giai đoạn, giai đoạn một là nó phải đủ mạnh để xuyên qua được những lớp đất đá trước khi tới mục tiêu ở dưới sâu, vì vậy nó phải có thật nhiều kinetic energy [động năng], đồng nghĩa với việc đầu của quả bom càng nặng càng tốt và nó phải được thả ở độ cao tối đa, vì vậy mới dùng đến siêu oanh tạc cơ B-2 và một quả bom khổng lồ như thế."

"Trong giai đoạn một đó, chất nổ bên trong quả bom phải nằm yên, chịu đựng, nếu nó nhạy quá, phát nổ khi chưa đến mục tiêu thì hỏng chuyện. Giai đoạn hai là khi quả bom đã lọt được vào mục tiêu ở sâu dưới đất rồi thì chất nổ mới được phép làm việc."

"Trong khi đó, quả bom áp nhiệt mà chúng tôi phải làm gấp trong 67 ngày cho chiến trường A Phú Hãn là một quả bom rất nhẹ. Nó chỉ có 2.000 pound (907kg) thay vì 30.000 pound, tức là nhẹ hơn gấp 15 lần, và chất nổ bên trong chỉ có 500 pound (hơn 225 kg)”.

"Bom này thả ở gần cửa hang, không phải xuyên thủng đá núi để lọt vào tận bên trong sào huyệt của địch, nhưng chất nổ áp nhiệt có phạm vi tác động xa, vẫn có đủ sức nóng, áp suất để lan vào trong cả ngàn thước."

 

Nhưng điểm tương đồng ở hai quả bom này là chất nổ đều không được quá nhạy để phát nổ quá sớm. Kỹ thuật đó, bà Ánh cho biết, là của Hải quân Mỹ, trong một chương trình do các khoa học gia đề xướng từ đầu thập niên 1990 và được bà cùng các cộng sự kiện toàn vào cuối thập niên đó.

 

Cách thức hoạt động của bom xuyên phá GBU-57

 

 

Võ khí mang lại chiến tranh hay hòa bình?

 

Một điều thú vị ở người phụ nữ có tên tuổi gắn liền với những loại võ khí sát thương cao này là cách giáo dục con cái. Lúc con còn nhỏ, cả bà và chồng thậm chí cắt đi những cảnh bạo lực trong các phim Disney vì không muốn các con nghĩ rằng bạo lực là cách giải quyết mọi việc.

 

 

Nhưng bà cho rằng võ khí là một phương tiện cần thiết. Bà Ánh nêu ý kiến, "Nếu lý luận là không nên phát triển vũ khí vì chúng chỉ tạo ra chiến tranh thì khác nào nói rằng một quốc gia yêu chuộng hòa bình thì không cần phải có quân đội".

 

Bà nói, "Chiến tranh dĩ nhiên là bao giờ cũng gây ra chết chóc, đau thương cho cả hai bên. Một người từng lớn lên trong chiến tranh, từng tỵ nạn chiến tranh như tôi thì hiểu hơn ai hết cái sự tàn khốc và tàn nhẫn của chiến tranh’.

 

Vì vậy, mặc dù mong rằng Mỹ sẽ không bao giờ phải dính vào một cuộc chiến tranh nào, nhưng bà cho là Washington sẽ không thể tránh được vì phải tự vệ hoặc một lý do nào đó.

 

Bà tâm sự, "Tôi quan niệm rằng vũ khí chỉ là một phương tiện, nhưng là phương tiện sau cùng. Giống như người học võ, bao giờ cũng được dạy ngay từ đầu là dùng võ để tự vệ, để giúp người, chứ không phải dùng võ để hà hiếp người, để lấn át người."

"Thành ra tôi muốn dạy các con rằng bạo lực là không được, khi mình gặp phải một thử thách nào đó thì phải tìm đủ mọi cách để vượt qua, phải giải quyết bằng trí thông minh, tình cảm, chứ không dùng bạo lực, trừ khi là để tự vệ".

 

 

Hiện tại, ở tuổi 65, bà Ánh đã về hưu và sống bình yên bên chồng và các con ở tiểu bang Maryland. Ảnh: Ánh Dương

 

 

Giờ đây, ở tuổi 65, bà Ánh sống bình yên bên chồng và các con ở tiểu bang Maryland, có cơ hội được quay lại với văn chương và các sở thích khác như cắm hoa, trồng cây…

 

"Đôi khi tôi cũng nhớ những cảm giác hồi hộp khi ngồi chờ kết quả thử nghiệm chất nổ, hay niềm vui khi tình cờ gặp một chiến binh trở về từ A Phú Hãn và nhận được lời cảm ơn của họ. Đó là những phần thưởng vô giá, hơn cả huy chương hay bằng khen."

 

 

(BBC News)