Nguồn: Nataliya Gumenyuk, “The Real Limits of Ukrainian Power”, Foreign Affairs, 29/08/2025

 

Biên dịch: Viên Đăng Huy (nghiencuuquocte.org)

 

 

Hội nghị thượng đỉnh ngày 15 tháng Tám ở Alaska giữa Tổng thống Nga Vladimir Putin và Tổng thống Mỹ Donald Trump thất bại trong việc chấm dứt cuộc chiến của Nga tại Ukraine không có gì đáng ngạc nhiên. Rõ ràng là Putin đã không sẵn sàng đưa ra bất kỳ điều khoản nào có thể giúp thiết lập một nền hòa bình đáng tin cậy. Một cuộc họp cách xa hàng nghìn dặm so với khu vực xung đột và không có sự tham gia của Ukraine, khó có thể mang lại một kết quả có ý nghĩa. Hơn hết, nó hầu như không liên quan gì đến những gì đang diễn ra tại chính Ukraine.

 

 

Kể từ cuối mùa xuân, người dân Ukraine phải đối mặt với thực tế gần như hàng ngày: các cuộc tấn công bằng hỏa tiễn và drone quy mô lớn nhằm vào các thành phố, giữa lúc Nga tăng cường tấn công dọc theo 1.200 km tiền tuyến. Theo người Ukraine, hội nghị thượng đỉnh Trump-Putin chỉ càng khẳng định cảm giác rằng họ sẽ cần phải tiếp tục chiến đấu trong một thời gian dài nữa và Mỹ không còn có thể được trông cậy để hỗ trợ họ. Nhiều người đã chuẩn bị cho cuộc chiến này, ngay cả khi họ không chào đón nó và ngay cả khi điều đó đồng nghĩa với việc đối mặt với những kinh hoàng ngày càng gia tăng, như cuộc tấn công tàn bạo của Nga ngày 28 tháng Tám vào một tòa nhà chúng cư năm tầng ở Kyiv khiến 22 người thiệt mạng. Nhưng có một điều khác đã trở nên quan trọng hơn bao giờ hết để duy trì nỗ lực này, sau ba năm rưỡi chiến tranh không ngừng nghỉ: duy trì sự gắn kết xã hội và trách nhiệm giải trình dân chủ, hay điều mà người Ukraine gọi là “niềm tin thời chiến”.

 

Vào tháng 7/2025, người Ukraine đã tổ chức các cuộc biểu tình lớn nhất kể từ khi Nga phát động cuộc xâm lược toàn diện - thực tế là lớn nhất kể từ khi Tổng thống Volodymyr Zelenskyy lên nắm quyền vào năm 2019. Đã có lúc, có tới 10.000 người tụ tập cách văn phòng của ông ở Kyiv vài trăm mét, với các cuộc biểu tình tương tự diễn ra ở hàng chục thị trấn khác trên khắp cả nước. Các cuộc biểu tình do những người trẻ dẫn đầu, nhưng họ không phàn nàn về cuộc chiến hay thậm chí là việc sẽ có thêm nhiều người trong số họ, cả nam và nữ, được yêu cầu chiến đấu khi cuộc chiến kéo dài. Thay vào đó, họ yêu cầu giới hạn quyền hành pháp, nhắm vào một đạo luật được ban hành vội vã nhằm giới hạn sự độc lập của các cơ quan chống tham nhũng quốc gia của Ukraine: Văn Phòng Chống Tham nhũng Quốc gia Ukraine (NABU) và Văn phòng Công tố viên Chống Tham nhũng Chuyên biệt Ukraine (SAPO).

 

Cùng với thực tế là sự hỗ trợ của Tây phương đang suy yếu, các cuộc biểu tình đã đánh dấu một bước ngoặt trong nền dân chủ của đất nước. Mặc dù tình trạng thiết quân luật vẫn tiếp tục, lý do chính khiến xã hội Ukraine phần lớn gắn kết với nhau trong chiến tranh là sự hợp tác chặt chẽ giữa chánh phủ, khu vực tư nhân, các tổ chức xã hội dân sự và chính công dân. Trong lĩnh vực chánh trị, hầu hết các đảng đối lập cũng đã tập hợp xung quanh ban lãnh đạo hiện tại. Nhưng mặt trận thống nhất này sẽ không tự tồn tại. Khi người dân Ukraine chuẩn bị sống trong tình trạng chiến tranh trong nhiều năm tới, năng lực chiến đấu của họ sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào năng lực bảo vệ và củng cố các mối liên kết chánh trị và xã hội phức tạp đã giữ họ và chánh phủ của họ đoàn kết.

 

 

Không có dấu hiệu kết thúc

Trong phần lớn năm vừa qua, người dân Ukraine đã chấp nhận một thực tế phũ phàng. Không chỉ sự hỗ trợ của Tây phương đã suy giảm nói chung, bất chấp những nỗ lực phối hợp của Âu châu để bù đắp cho sự rút lui của Mỹ; hiện tại cũng có rất ít triển vọng rằng cuộc chiến sẽ kết thúc sớm. Giới hạn của sự hỗ trợ từ Mỹ đã bị đặt dấu hỏi vào cuối năm 2023, khi một gói viện trợ mới trị giá 60 tỷ USD bị đình trệ tại Quốc hội. Tuy nhiên, vào mùa xuân và mùa hè năm 2024, việc thông qua dự luật đó muộn màng - cùng với quyết định của chính quyền Biden cho phép Ukraine tấn công sâu vào bên trong Nga - đã mang lại hy vọng rằng Mỹ cuối cùng sẽ cung cấp cho Ukraine những năng lực mà họ cần để thực sự gây tổn thất cho Nga. Trong thời gian chuẩn bị cho cuộc bầu cử Mỹ vào tháng Mười một, Zelenskyy đã công bố một kế hoạch phác thảo cách Mỹ và các đồng minh Âu châu có thể giúp Ukraine giành chiến thắng trong cuộc chiến.

 

Kể từ cuộc bầu cử, và đặc biệt là kể từ khi Trump trở lại nhiệm sở vào tháng 1/2025, những hy vọng đó đã tan biến. Thay vì cung cấp thêm thiết bị quốc phòng cho Ukraine và gây áp lực lên Nga, Trump đã hứa sẽ bảo đảm một thỏa thuận hòa bình nhanh chóng và giờ đây thậm chí đã gặp Putin trong một cuộc gặp mà người Ukraine chủ yếu diễn giải là cơ hội để Nga cố gắng buộc Ukraine đầu hàng. Trong khi đó, về các vấn đề thực chất mà một thỏa thuận hòa bình chân chính sẽ yêu cầu, rất ít tiến bộ thực sự đã được thực hiện.

 

Đối với dân thường của Ukraine, cũng như binh lính của họ trên tiền tuyến, cơ hội có một lệnh ngừng bắn trong những tháng tới dường như là rất xa vời. Kể từ mùa xuân, Nga đã đổ thêm nhiều nguồn lực vào cuộc chiến bất chấp việc phải chịu một số tỷ lệ thương vong cao nhất kể từ khi chiến tranh bắt đầu. Trong những tuần gần đây, lực lượng Nga đã gây áp lực đặc biệt lên khu vực xung quanh Pokrovsk, ở vùng Donetsk, nơi mà trong 18 tháng họ đã đạt được rất ít tiến bộ. Giữa tháng Tám, họ đã đạt được một bước đột phá đáng chú ý ở tiền tuyến phía bắc Pokrovsk, mặc dù lực lượng Ukraine đã đẩy lùi họ khỏi nhiều thành quả này trong những ngày sau đó. Nga cũng đã thực hiện các hành động tấn công mới ở Zaporizhzhia và các nơi khác dọc theo tiền tuyến với chi phí cao cho quân đội của cả hai bên.

 

Trong khi đó, kể từ cuối mùa xuân, Nga đã tăng cường các cuộc tấn công Kyiv và các thành phố khác của Ukraine, đôi khi với hơn 500 drone và hỏa tiễn chỉ trong một đêm, trong một nỗ lực rõ ràng nhằm áp đảo hệ thống phòng không của Ukraine. (Trong cuộc tấn công đêm 28 tháng Tám vào đất nước, quân đội Ukraine đã bắn hạ 563 drone và 26 hỏa tiễn). Mặc dù lực lượng Ukraine vẫn ở thế phòng thủ, họ vẫn giữ thế thượng phong nói chung trong việc khai triển drone một cách sáng tạo. Nga hiện vượt trội hơn Ukraine trong việc sản xuất một vài loại drone, nhưng Kyiv vẫn dẫn trước ở nhiều loại khác. Ukraine cũng đã duy trì tỷ lệ thương vong - tỷ lệ lực lượng bị giết, bị thương và mất tích - thấp hơn đáng kể so với Nga, nước đã chịu tổn thất nhân mạng to lớn.

 

Nhưng cái giá cao mà Ukraine đã gây ra cho Nga là không đủ để buộc Điện Kremlin từ bỏ các mục tiêu của mình. Quân đội Nga tiếp tục dựa vào lực lượng lao động dồi dào và được đưa thêm vào thường xuyên và dường như không coi trọng mạng sống của binh lính của mình. Theo các chỉ huy Ukraine, Putin dường như quyết tâm tiếp tục cuộc chiến cho đến khi Nga chiếm được toàn bộ vùng Donetsk. Trong diễn ngôn chính thức của Moscow, cuộc chiến vẫn được gọi là “chiến dịch quân sự đặc biệt”, giờ đây được đóng khung chủ yếu là “giải phóng Donbas”/ vùng phía đông Ukraine mà Donetsk là phần quan trọng.

 

Lãnh thổ được thèm muốn này bao gồm “vành đai pháo đài” chiến lược của Ukraine, một loạt các tuyến phòng thủ quan trọng xung quanh các thành phố lớn Kramatorsk và Slovyansk phía bắc Pokrovsk. Tại hội nghị thượng đỉnh ở Alaska, Putin đã gợi ý với Trump rằng vùng đất này - mà lực lượng Nga đã không thể chiếm được - có thể chỉ đơn giản được giao cho Nga trong một “thỏa thuận” cuối cùng. Đồng thời, Nga đang phát động các cuộc tấn công mới dọc theo các phần khác của tiền tuyến, bao gồm cả xung quanh Zaporizhzhia và Sumy. Những cuộc tấn công này dường như là một phần của nỗ lực nhằm kéo căng hệ thống phòng thủ của Ukraine và duy trì các mục tiêu lãnh thổ dài hạn của Nga, và chúng đã phải trả giá đắt cho quân đội của cả hai bên.

 

Với cuộc chiến khốc liệt và các cuộc tấn công không ngừng nghỉ vào dân thường và các thành phố, giới quan sát Tây phương cho rằng sự ủng hộ của Ukraine đối với việc tiếp tục chiến tranh đang xói mòn. Ví dụ, một cuộc khảo sát của Gallup vào tháng 7/2025 cho thấy 69% người Ukraine tin rằng đất nước của họ nên tìm kiếm một thỏa thuận hòa bình “càng sớm càng tốt” - một sự gia tăng đáng chú ý so với cuối năm 2024 - so với chỉ 24% người nói rằng họ ủng hộ việc tiếp tục chiến đấu cho đến khi Ukraine giành chiến thắng trong cuộc chiến. Nhưng những con số này không cho thấy rằng người Ukraine đã chuẩn bị đầu hàng hoặc họ ít chuẩn bị chiến đấu hơn trong ngắn hạn. Cuộc khảo sát cũng không nêu rõ các điều kiện chính xác mà họ sẽ chấp nhận một sự kết thúc bằng đàm phán như vậy - những chi tiết mà người Ukraine rất coi trọng, hầu hết trong số họ, như các cuộc thăm dò khác đã cho thấy, kiên quyết từ chối kế hoạch được đề nghịz của Nga và không chuẩn bị cho hòa bình bằng mọi giá.

 

Điều đáng nói là cuộc khảo sát của Gallup cũng cho thấy 68% người Ukraine - gần như cùng một tỷ lệ những người ủng hộ một sự kết thúc bằng đàm phán của cuộc chiến - nghĩ rằng “không có cơ hội” rằng “cuộc chiến sẽ có một sự kết thúc lâu dài” trong 12 tháng tới. Trên thực tế, quyết tâm quân sự của Ukraine chưa bao giờ bị nghi vấn. Điều quan trọng hơn có thể là sự gắn kết xã hội phi thường đã khiến đất nước này trở nên kiên cường.

 

 

Điều bị coi là hiển nhiên

Kể từ khi Nga phát động cuộc xâm lược toàn diện, sự kiên cường của Ukraine đã được định hình bởi mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa nhà nước và xã hội. Người dân đóng góp và hy sinh cho cuộc chiến, nhiều người đã tình nguyện chiến đấu, và những người khác đã làm việc trong chánh phủ hoặc khu vực tư nhân để hỗ trợ nỗ lực này. Đổi lại, các thể chế nhà nước đã giữ họ an toàn trong phạm vi có thể và tiếp tục cung cấp các dịch vụ. Cùng với hợp đồng xã hội ngầm này, thiết quân luật đã cho nhà nước quyền pháp lý để giới hạn nhiều khía cạnh của đời sống dân sự và chánh trị. Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ những biện pháp liên quan trực tiếp đến an ninh quốc gia mới được thực thi. Khi nhà nước bắt đầu áp đặt những giới hạn rộng hơn, những bước đi đó đã được biện minh là phản ứng với các mối đe dọa an ninh.

 

 

Trong phần lớn cuộc chiến, chánh phủ Ukraine dường như đã thừa nhận sự cần thiết phải duy trì sự đồng lòng với công chúng. Ví dụ, khi các cơ quan lập pháp tranh luận về một đạo luật huy động quân mới vào đầu năm 2024, Zelenskyy đã hiểu rằng các quy tắc mới không thể được thông qua vội vàng và phải tính đến mong muốn của người dân. Ngược lại, đạo luật giới hạn sự độc lập của NABU và SAPO đã được thông qua vội vàng tại quốc hội, với những sửa đổi gây tranh cãi được đưa vào vào phút chót - gần như để che giấu chúng. Đối với nhiều người Ukraine, các cơ quan chống tham nhũng không chỉ giúp bảo đảm viện trợ nước ngoài, các khoản vay và một con đường để gia nhập EU; họ còn là một biểu tượng của sự chuyển đổi dân chủ của đất nước. Tuy nhiên, Zelenskyy đã nhanh chóng ký đạo luật này ngay trong ngày nó được thông qua.

 

Sự phản đối lớn của công chúng có ý nghĩa vì nhiều lý do. Nhiều người Ukraine coi chánh phủ đã vượt qua một lằn ranh đỏ trong việc mở rộng quyền hành pháp. Điều quan trọng không kém là những gì cuộc tranh cãi gợi ý về Zelenskyy, người có lẽ lần đầu tiên đã đọc sai tâm trạng của công chúng. Đôi khi được mô tả là một người theo chủ nghĩa dân túy, Zelenskyy thường bị ảnh hưởng bởi các cuộc thăm dò, và về các vấn đề như yđàm phán với Nga và đối phó với Mỹ và Âu châu, ông nói chung đã đồng lòng với ý kiến chủ đạo của người Ukraine. Đối với hầu hết cử tri của ông, vai trò lãnh đạo thời chiến của tổng thống được xem không phải là anh hùng hay phi thường mà chỉ đơn giản là những gì bất kỳ quan chức nào ở vị trí của ông nên làm. Tuy nhiên trong trường hợp này, theo nhiều nguồn tin thân cận với chánh phủ, tổng thống đã đích thân tham gia vào việc thúc đẩy, khởi xướng và đàm phán một đạo luật cực kỳ không được lòng dân.

 

Các cuộc biểu tình cũng bộc lộ một điểm yếu khác. Zelenskyy đã bị phe đối lập chánh trị, xã hội dân sự và một số thành viên của lực lượng võ trang chỉ trích vì duy trì một sự chia rẽ quá rõ ràng giữa tiền tuyến và hậu phương. Một phần quan trọng trong chiến lược cầm quyền của ông là thúc đẩy một cảm giác bình thường trong xã hội dân sự: giữ cho các doanh nghiệp hoạt động và đời sống công cộng sôi động, với các nhà hàng, lễ hội và hiệu sách, và giảm mong muốn rời khỏi đất nước của người Ukraine. Tuy nhiên, giữa cuộc chiến, cái chết và sự tàn phá ở phía đông và các cuộc tấn công không ngừng nghỉ vào ban đêm vào các thành phố, những bầu không khí thời bình này có thể có vẻ kỳ quặc. Chúng cũng có thể không bền vững.

 

Theo quan điểm của những người chỉ trích ông, Zelenskyy đã cho phép quá nhiều người Ukraine sống trong tình trạng bình thường về cả thể chất lẫn tinh thần, đặt gánh nặng lớn hơn lên những người đã kiệt sức bởi nhiều năm chiến đấu. Cuối tháng 8/2025, chánh phủ đã công bố một quyết định gây tranh cãi cho phép nam giới từ 18 đến 22 tuổi tự do rời khỏi đất nước. Mặc dù độ tuổi huy động chính thức bắt đầu từ 25, một số người lo sợ rằng đạo luật có thể tước đi những người lính tiềm năng của đất nước. Trong khi đó, ngay cả sau hơn một năm tranh luận, những người lính Ukraine vẫn chưa có một thời hạn phục vụ xác định hoặc kế hoạch xuất ngũ. Không muốn giải ngũ những người lính giàu kinh nghiệm nhất, chánh phủ chỉ thực hiện các bước tối thiểu để giảm bớt tình hình của họ, chẳng hạn như một đạo luật được ký vào cuối tháng Bảy, quy định 30 ngày nghỉ phép mỗi năm.

 

Việc tăng cường quân đội tiếp tục là một vấn đề căng thẳng. Chánh phủ nói chung đã xử dụng các biện pháp khuyến khích hơn là thực thi công khai để huy động người dân. Kể từ khi phê duyệt đạo luật huy động quân tháng Tư năm 2024, việc tuyển dụng đã được phân cấp: các lữ đoàn và sư đoàn cá nhân hiện tự thực hiện các hoạt động cạnh tranh để có được những người lính mới. Điều này đã tạo ra một tình huống trong đó các đơn vị được đánh giá cao nhứt và tháo vát nhứt có thể thu hút thêm nhiều tân binh, và năng lực làm điều đó của họ đã trở thành thước đo của thành công khi các đơn vị khác phải vật lộn để có đủ nhân lực. Nói chung, vẫn còn nhiều lỗ hổng trong hệ thống và mức quân số hiện tại còn lâu mới đủ.

 

Ở trong nước, quản trị thời chiến đã hỗn loạn và không đồng đều. Một số doanh nghiệp đã phải đối mặt với áp lực từ các cơ quan chức năng về các vấn đề thuế, quyền lực thực thi pháp luật đã được tăng cường, và quyền tự do truyền thông đã bị cắt giảm. Những lo ngại về tham nhũng cũng vẫn tồn tại, mặc dù người Ukraine lo lắng hơn về việc mở rộng quyền hành pháp. Người Ukraine có xu hướng xử dụng thuật ngữ “tham nhũng” để mô tả bất kỳ trường hợp nào về quản trị kém, quản lý yếu kém hoặc bộ máy quan liêu không hiệu quả. Công lý có chọn lọc là một vấn đề, và có những nghi ngờ rằng các cáo buộc tham nhũng - cho dù bởi các cơ quan thực thi pháp luật hay một loạt các cơ quan truyền thông đáng ngờ, các kênh Telegram và các trang trại bot (Bot Farm  - Trang trại bo – hay botnet: là mạng lưới các chương trình tự động được thiết kế để thực hiện các nhiệm vụ lặp đi lặp lại với quy mô vượt xa năng lực của con người. Số lượng bot có thể thay đổi rất nhiều - từ chỉ vài bot cho đến hàng triệu - tùy thuộc vào mục đích xử dụng và nguồn lực của các công ty điều hành. Thông thường, bot farm được điều khiển bởi một thực thể chính, có thể khiến các bot này thực hiện các nhiệm vụ cụ thể cùng nhau) - đang được xử dụng để chống lại các đối thủ chánh trị ở cấp địa phương và quốc gia. Theo luật công khai nghiêm ngặt của Ukraine, ngay cả việc bỏ sót một khoản nắm giữ nhỏ trong bản kê khai tài sản cũng có thể đủ để kết thúc một sự nghiệp. Trong bối cảnh này, những người Ukraine biểu tình chống lại đạo luật tháng Bảy ít bị thúc đẩy bởi sự cần thiết phải chống tham nhũng hơn là về việc đánh dấu giới hạn của quyền lực chánh phủ. Có một cảm giác rộng rãi rằng các cơ quan hữu trách đã bắt đầu coi sự ủng hộ của công chúng là điều hiển nhiên.

 

 

Điều chỉnh lại hướng đi

Nếu các cuộc biểu tình rầm rộ do đạo luật tháng Bảy gây ra hoàn toàn mới đối với Ukraine của Zelenskyy, chúng vẫn còn cách xa Euromaidan, cuộc nổi dậy năm 2014 đã dẫn đến sự sụp đổ của tổng thống thân Nga tham nhũng của Ukraine, Viktor Yanukovych. Những người trẻ tuổi Ukraine ôn hòa đã tràn ra đường phố vào tháng Bảy yêu cầu nhà nước thực thi trách nhiệm giải trình, bảo tồn các chuẩn mực dân chủ, duy trì sự toàn vẹn của các thể chế nhà nước - và trên hết, bảo đảm rằng năng lực phòng thủ của các lực lượng võ trang không bị suy yếu. Họ cũng rất có kỷ luật. Khi một vài người hoạt động cố gắng chuyển các cuộc biểu tình chống lại trực tiếp hơn ban lãnh đạo Ukraine, những người khác đã nhanh chóng can thiệp để định hướng lại thông điệp trở về việc duy trì sự toàn vẹn của các thể chế nhà nước. Nhiều người tham gia nói rằng họ không quá phẫn nộ mà cảm thấy bị xúc phạm bởi cách chánh phủ đã đối xử với công chúng.

 

Ở một cấp độ khác, việc chỉ đơn thuần có hoạt động đường phố quy mô lớn, ôn hòa giữa cuộc tấn công hàng ngày của một cuộc chiến đe dọa sự tồn tại của Ukraine cho thấy sự tiến hóa dân chủ của đất nước đã đi xa đến mức nào. Khi các cuộc biểu tình bắt đầu, những người biểu tình đã không thông báo cho thành phố về kế hoạch của họ và tự do tụ tập; ngày hôm sau, một người hoạt động 23 tuổi đã gửi một thông báo chính thức cho Hội đồng Thành phố Kyiv. Mặc dù đám đông rất lớn, việc kiểm soát của cảnh sát rất lỏng lẻo: kể từ khi Yanukovych ra lệnh cho cảnh sát chống bạo động nổ súng vào người biểu tình vào năm 2014, giết chết 78 người, việc xử dụng võ lực của cảnh sát chống lại người biểu tình đã trở thành một điều cấm kỵ về chánh trị và đạo đức. Chỉ có cái gọi là cảnh sát đối thoại, được huấn luyện để giảm leo thang thay vì đối đầu, được khai triển; quan sát từ xa, các viên chức cấp cao bày tỏ sự ngạc nhiên trước việc một số người biểu tình tuổi teen am hiểu về cách thức hoạt động kỹ thuật của các tổ chức chống tham nhũng đến mức nào.

 

Đối với Zelenskyy, không có nhiều lựa chọn ngoài việc phải phản ứng. Hai ngày sau khi ký đạo luật thiếu suy nghĩ, với hàng nghìn người trên đường phố, ông đã đề nghị một đạo luật sửa đổi khôi phục lại sự độc lập của các tổ chức chống tham nhũng. Một số quan chức an ninh, bao gồm cả Cơ quan An ninh Ukraine và Văn phòng Tổng công tố, đã không hài lòng về sự đảo ngược này, mà họ coi là một sự nhượng bộ được thực hiện dưới áp lực. Tuy nhiên, người dân trên khắp đất nước tiếp tục biểu tình mỗi ngày cho đến khi quốc hội xem xét đạo luật sửa đổi vào ngày 31 tháng Bảy.

 

Đêm trước cuộc bỏ phiếu đã được lên lịch, Nga đã phát động một cuộc tấn công lớn vào Kyiv, khai triển hơn 300 drone Shahed và tám hỏa tiễn hành trình Iskander-K. Trong số đó, 21 drone và năm hỏa tiễn đã tấn công thủ đô, giết chết bốn người – trong đó có một cậu bé sáu tuổi. Vài giờ sau, hàng nghìn người tụ tập bên ngoài Verkhovna Rada, quốc hội Ukraine, để xem một chương trình phát sóng trực tiếp phiên họp lập pháp - được phát sóng theo yêu cầu của một thành viên phe đối lập bất chấp lệnh cấm phát sóng như vậy sau cuộc xâm lược. Đạo luật cập nhật đã được thông qua với đa số áp đảo, được 331 trong số 401 thành viên hiện tại của quốc hội ủng hộ.

 

 

Với Tây Phương, và không có Tây Phương 

Mặc dù cuộc khủng hoảng chánh trị của Ukraine dường như đã lắng xuống, cuộc tranh cãi tháng Bảy đã nhấn mạnh sự phức tạp trong mối quan hệ của chánh phủ với các đối tác Tây phương. Nhiều người dân Ukraine bình thường hiểu rằng các cải cách quan trọng của chánh phủ, đặc biệt là việc thành lập các cơ quan chống tham nhũng độc lập, không chỉ là ưu tiên trong nước mà còn là những điều kiện cơ bản để tiếp tục nhận được sự hỗ trợ quốc tế. Những cải cách này đã được Mỹ khuyến khích mạnh mẽ, nếu không muốn nói là đòi hỏi. Tuy nhiên, kể từ khi Trump trở lại nắm quyền hồi tháng Một, một kỷ nguyên mới đã bắt đầu: mặc dù những cải cách này vẫn quan trọng đối với Liên minh Âu châu, áp lực đối với Ukraine để duy trì chúng đã giảm bớt. Chánh phủ - và phần lớn công chúng - có thể thấy rằng ưu tiên hàng đầu của chánh phủ Mỹ hiện nay là lợi ích và các thỏa thuận kinh tế của Mỹ chứ không phải là các cải cách dân chủ hay quyền tự do chánh trị.

 

Tại quốc hội, đã có sự chỉ trích ngày càng tăng đối với các thể chế do Tây phương hậu thuẫn của Ukraine, bao gồm cả các cơ quan chống tham nhũng. Mặc dù Ukraine trong lịch sử thiếu các tiếng nói chống Tây phương mạnh mẽ, một khối hoài nghi về ảnh hưởng nước ngoài đã rõ ràng xuất hiện, một phần trong chính đảng của Zelenskyy nhưng mạnh mẽ nhất thông qua cựu Thủ tướng Yulia Tymoshenko. (Từng là một nhân vật hàng đầu thân Âu châu và biểu tượng của Cách mạng Cam năm 2004 của đất nước, Tymoshenko hiện dẫn đầu một đảng bảo thủ nhỏ nắm giữ 26 ghế trong quốc hội và được định hình bởi việc thúc đẩy tôn giáo, gia đình và sự hoài nghi đối với các thể chế Âu châu). Theo quan điểm của phe này, Ukraine đã nhường quá nhiều quyền kiểm soát các vấn đề nội bộ của mình cho Âu châu và Mỹ. Tuy nhiên, phần lớn công chúng Ukraine—và đặc biệt là những người biểu tình—coi việc hội nhập EU ít là một vấn đề từ bỏ chủ quyền hơn là việc đồng lòng với một tập hợp các chuẩn mực chung được khao khát. Theo các cuộc thăm dò khác nhau vào năm 2024 và 2025, có tới 90% người Ukraine hiện ủng hộ việc gia nhập EU.

 

Nhưng căng thẳng về ảnh hưởng của Tây phương cũng rõ ràng trong chánh phủ. Khi Zelenskyy tranh cử tổng thống vào năm 2019, ông thường chỉ trích những gì ông coi là sự can thiệp quá mức của Tây phương vào các vấn đề của Ukraine. Và trong suốt cuộc chiến, chính quyền của ông đã duy trì một sự cân bằng tinh tế giữa việc khẳng định quyền tự chủ đối với quản trị trong nước và đáp ứng các kỳ vọng và tiêu chuẩn của Mỹ và Âu châu. Ngay cả khi đất nước đã phụ thuộc rất nhiều vào viện trợ tài chính và quân sự từ Washington và các đồng minh Âu châu, họ vẫn tìm cách tương tác với các đối tác này như một bên bình đẳng. Và với việc chính quyền Trump ít tham gia vào cuộc khủng hoảng của Ukraine hơn và các chánh phủ Âu châu bị phân tâm bởi các câu hỏi an ninh cơ bản, chánh phủ có thể cảm thấy họ có nhiều không gian hơn để xoay sở hoặc để làm chậm tốc độ cải cách.

 

Kể từ cuộc xâm lược, chính EU đôi khi cũng không chắc chắn về cách phản ứng với vai trò lãnh đạo thời chiến của Ukraine. Theo một số thước đo—bao gồm mua sắm công, kê khai tài sản, bảo vệ người tố giác và giám sát tài chính các quan chức công—các cơ chế minh bạch và chống tham nhũng của Ukraine hiện vượt qua các cơ chế ở nhiều nền dân chủ Âu châu lâu đời. Mặt khác, như một phần của kế hoạch hành động để gia nhập EU, Ukraine có một danh sách chi tiết các việc cần làm để cải cách thêm, và trong khi một số trong số này đã được tiến hành, ngày càng có nhiều lo ngại rằng chánh phủ có thể cố gắng làm loãng chương trình nghị sự.

 

 

Chánh trị của sự sống còn

Như những người biểu tình mùa hè này đã hiểu, Ukraine không chỉ chiến đấu cho tương lai của mình với tư cách là một quốc gia-dân tộc. Họ đang chiến đấu để tồn tại với tư cách là một nền dân chủ. Trong số các động lực khác nhau của Putin để phát động cuộc chiến này, quan trọng nhất là sự thay thế đầy đe dọa mà hệ thống chánh trị cởi mở của Ukraine đặt ra cho chế độ chuyên quyền của ông. Cuộc khủng hoảng tháng Bảy cho thấy công dân Ukraine dường như có sự hiểu biết rõ ràng hơn về những gì đang bị đe dọa so với các nhà lãnh đạo của họ. Lần này, áp lực không đến từ Brussels hay Washington; nó đến từ đường phố Kyiv.

 

Đối mặt với thực tế là Mỹ không còn có thể được trông cậy, Ukraine phải đối mặt với một thách thức vừa mang tính chánh trị vừa mang tính quân sự. Đất nước phải học cách cung cấp nhiều hơn năng lực công nghiệp quốc phòng mà họ rất cần, bao gồm hàng triệu drone hiện là trung tâm của chiến lược chiến tranh của họ. Mặc dù Ukraine sẽ nhẹ gánh trong ngắn hạn từ các loại đạn dược cấp thêm của Mỹ như hỏa tiễn đánh chặn cho hệ thống Patriot, Ukraine cuối cùng sẽ cần phải phát triển các giải pháp của riêng mình. Nhưng cuộc chiến cũng phải được duy trì ở trong nước. Cả ban lãnh đạo và người dân phải tiếp tục xây dựng và bảo vệ các thể chế thiết yếu cho nền tảng dân chủ của Ukraine, và không bên nào có thể để mất bên kia. Điều đó sẽ đòi hỏi phải bảo tồn chất keo đã giữ cho quốc gia này đoàn kết kể từ những ngày đen tối của tháng Hai năm 2022.

 

Moscow vẫn miêu tả Ukraine chỉ sống sót nhờ viện trợ của Tây phương, không phải là một quốc gia độc lập. Nhưng khi Ukraine kỷ niệm 34 năm độc lập, ngày càng rõ ràng rằng chính sự kiên cường của chính nó - với tư cách là một nhà nước, một xã hội và một cường quốc quân sự - đã cho phép nó tồn tại. Vì bài học thực sự của sáu tháng qua là không ai đang chiến đấu cuộc chiến này ngoại trừ chính người Ukraine.

 

 

Natalya Gumenyuk là nhà báo người Ukraine, Giám đốc điều hành của Public Interest Journalism Lab, và đồng sáng lập của The Reckoning Project. Bà là tác giả cuốn sách The Lost Island: Dispatches From Occupied Crimea.

 

 

(Dan Viet News phụ đính)