(Ảnh: nghiencuuquocte.org)

 

Nguồn:  Erik Lin-Greenberg, “Wars Are Not Accidents”, Foreign Affairs, 08/10/2024

 

Biên dịch: Viên Đăng Huy | Hiệu đính: Nguyễn Thế Phương (nghiencuuquocte.org)

 

 

Vụ ám sát một lãnh đạo cấp cao của Hamas ở Tehran do Israel thực hiện vào tháng Bảy, cuộc tấn công của Ukraine vào lãnh thổ Nga trong mùa hè, và một loạt các hành vi khiêu khích trên không và trên biển ngày càng quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông gần đây đã làm dấy lên lo ngại rằng các cuộc xung đột âm ỉ kéo dài có thể leo thang thành các cuộc chiến tranh quy mô lớn hơn. Sau những hành động khiêu khích này, các chuyên gia phân tích lo lắng về nguy cơ gia tăng các vụ tai nạn quân sự và nhận thức sai lầm về chiến lược. Họ lo ngại rằng những sự cố kiểu này có thể làm gia tăng căng thẳng đến mức các cơ quan hoạch định chính sách bị mất kiểm soát và vấp phải những cuộc chiến mà họ không có ý định tham gia. Như Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken đã nói vào tháng Tám, các cuộc tấn công ở Trung Đông “làm tăng nguy cơ dẫn đến những hậu quả nguy hiểm mà không ai có thể dự đoán và không ai có thể kiểm soát hoàn toàn.”

 

 

Mặc dù các sự cố khiêu khích có thể đẩy các cuộc khủng hoảng leo thang, nhưng các cuộc chiến thực sự do vô thức là rất hiếm. Lịch sử cung cấp rất ít ví dụ về các cuộc xung đột diễn ra mà không có sự cho phép của các cơ quan hoạch định chính sách, và các nhà lãnh đạo thường xuyên kiềm chế để tránh chiến tranh, đặc biệt là trong các tình huống có nguy cơ cao. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng hỏa tiễn ở Cuba năm 1962, các cơ quan hoạch định chính sách của Mỹ đã không trả đũa sau khi quân đội Liên Xô bắn hạ một máy bay do thám của Mỹ, lùi một bước khỏi bờ vực chiến tranh. Khi đối mặt với nguy cơ xung đột leo thang, các đối thủ thường tìm cách giảm leo thang khủng hoảng. Chính sách liều lĩnh này đòi hỏi sự dàn xếp cẩn thận: các quốc gia phải học cách gây áp lực lên đối thủ của mình vừa đủ để định hình hành vi của họ mà không vượt qua ngưỡng có thể kích hoạt phản ứng đáng kể.

 

Ngay cả khi đó, việc vượt qua lằn ranh đỏ cũng không bảo đảm sẽ xảy ra xung đột. Cái chết của ba binh sĩ Mỹ trong một cuộc tấn công bằng drone do Iran hậu thuẫn hồi tháng Một đã không dẫn đến một cuộc chiến giữa Washington và Tehran. Hồi tháng Tư, cuộc tấn công ồ ạt bằng drone và hỏa tiễn mà Iran phát động chống lại Israel đã không châm ngòi cho một cuộc xung đột toàn diện giữa hai quốc gia này. Nhưng để tránh chiến tranh, các nhà lãnh đạo ở cả hai bên phải kiềm chế bản thân vào những thời điểm khủng hoảng mà không bị mất mặt hoặc tỏ ra yếu đuối. Để làm được như vậy, họ phải cân nhắc kỹ lưỡng các hành động của mình—làm thế nào, khi nào và ở đâu để gây áp lực lên đối thủ theo cách tránh kích hoạt sự leo thang trả đũa. Họ cũng phải thiết lập liên lạc trực tiếp hoặc gián tiếp với các đối thủ, tạo điều kiện cho các thỏa thuận cho phép cả hai bên tuyên bố thành công trong các hành động cưỡng chế của mình đồng thời giảm khả năng hiểu lầm. Hiểu cách điều hướng sự tương tác giữa áp lực và kiềm chế sẽ trao quyền cho các nhà lãnh đạo lùi bước khỏi bờ vực chiến tranh.

 

 

Lịch sử bí mật

 

Nỗi sợ leo thang vô ý không phải là điều mới mẻ trong quan hệ quốc tế. Các khoa học gia chính trị đã dành nhiều thập kỷ để tranh luận về việc liệu các kế hoạch huy động quân sự có khiến các quốc gia châu Âu “vô thức” bước vào Thế chiến I hay không. Trong Chiến tranh Lạnh, các cơ quan hoạch định chính sách lo lắng rằng trục trặc vũ khí, báo động giả từ các hệ thống cảnh báo sớm và các hành động trái phép của các sĩ quan quân đội có thể châm ngòi cho một cuộc chiến tranh bằng vũ khí nguyên tử. Một số học giả đã khám phá cách các cuộc chiến tranh ngoài ý muốn có thể diễn ra từ những thất bại kỹ thuật trong các hệ thống quân sự. Những người khác cho rằng các quốc gia vấp phải xung đột khi các hành động quân sự tạo ra động lực khiến các nhà lãnh đạo chính trị không thể lùi bước khỏi bờ vực. Tuy nhiên, những người khác lập luận rằng các nhà lãnh đạo có thể phản ứng bằng các cuộc tấn công quân sự lớn nếu họ nhận thức một cách sai lầm rằng các hành động hạn chế của đối thủ là mối đe dọa hiện hữu.

 

Mặc dù các học giả đã mô tả các con đường khác nhau dẫn đến chiến tranh vô thức, nhưng các khung lý thuyết của họ có một đặc điểm chung: giả định rằng các cơ quan hoạch định chính sách có ít quyền kiểm soát đối với sự leo thang căng thẳng. Theo các chuyên gia nghiên cứu này, các quốc gia cuối cùng phải tham gia các cuộc chiến mà họ không lựa chọn để chiến đấu vì cơ hội hoặc phản ứng dây chuyền trong quân đội. Nhưng điều này không phù hợp với thực tế. Ngay cả trong những thời điểm căng thẳng nhất của Chiến tranh Lạnh, Mỹ và Liên Xô cũng không bao giờ vô tình rơi vào xung đột. Thay vào đó, các nhà lãnh đạo luôn tìm ra lối thoát.

 

Cuộc khủng hoảng hỏa tiễn Cuba là một cuộc khủng hoảng cận kề chiến tranh. Hệ thống phòng không Liên Xô đã bắn hạ một máy bay do thám của Mỹ trên bầu trời Cuba mà không có sự chấp thuận của Moscow, và Mỹ đã cân nhắc đáp trả bằng các cuộc không kích trả đũa có thể dẫn đến chiến tranh. Tuy nhiên, Tổng thống Mỹ John F. Kennedy và các tham mưu trưởng liên quân của ông đã kiềm chế không trả đũa vì lo ngại rằng các cuộc không kích có thể bắt đầu một cuộc trao đổi vũ khí nguyên tử. Trong một thời điểm đặc biệt căng thẳng khác, vào năm 1983, Liên Xô đã huy động lực lượng sau khi đánh giá nhầm một cuộc tập trận quân sự của NATO là sự chuẩn bị của phương Tây cho một cuộc tấn công phủ đầu bằng vũ khí nguyên tử. Nhưng các chỉ huy cấp cao của Mỹ một lần nữa đã không trả đũa. Trong mỗi trường hợp này, các cơ quan hoạch định chính sách cuối cùng đã quyết định lùi bước khỏi chiến tranh, nhận ra những tác động thảm khốc tiềm tàng của sự leo thang.

 

Những lằn ranh mơ hồ

 

Các quốc gia đối địch thường xuyên tham gia vào các cuộc chiến tranh răn đe trong các cuộc khủng hoảng, thực hiện các hành động mạo hiểm làm tăng triển vọng chiến tranh. Lý do tại sao là hiển nhiên: làm như vậy có thể thúc đẩy đối thủ thay đổi hành vi của mình. Ngay cả khi điều đó không hiệu quả, bằng cách tăng cường căng thẳng, các nhà lãnh đạo thể hiện rằng họ cam kết đạt được mục tiêu của mình. Các hành động khiêu khích như đột kích, đánh chặn trên không và tấn công trên bộ báo hiệu sự sẵn sàng hành động chống lại kẻ thù và cho thấy rằng các hành động tăng cường sẽ được tiếp diễn nếu các đối thủ không chấp nhận yêu cầu của họ.

 

Nhưng các hành động khiêu khích vốn dĩ nguy hiểm. Ví dụ, máy bay chiến đấu của Trung Quốc thường sử dụng các thao tác mạo hiểm khi đánh chặn máy bay trinh sát của Mỹ, khiến khả năng va chạm cao hơn. Bản chất khó lường của những hành động này làm tăng nguy cơ xảy ra tai nạn, hiểu lầm hoặc đánh giá sai vốn có thể biến một sự cố nhỏ leo thang thành một cuộc xung đột rộng lớn hơn.

 

Điều khiến các cuộc khủng hoảng trở nên khó lường là các ngưỡng, hoặc các lằn ranh đỏ, có thể châm ngòi cho một cuộc chiến tranh thường không được công khai biết đến. Chúng cũng không nằm trong một danh mục rõ ràng. Chúng có thể là địa lý: ví dụ, các cuộc tấn công ở một số địa điểm nhất định sẽ kích hoạt leo thang, trong khi các cuộc tấn công ở những nơi khác có thể bị bỏ qua. Nhưng chúng cũng có thể dựa trên loại mục tiêu. Ví dụ, các cuộc tấn công vào các nhà thầu quân sự có thể nằm dưới ngưỡng trả đũa, nhưng các cuộc tấn công giết chết các quân nhân có thể kích hoạt một phản ứng gay gắt. Cường độ hành động của đối thủ cũng có thể giúp xác định ngưỡng. Một cuộc tấn công quy mô lớn có thể gây ra sự trả đũa đáng kể hơn một cuộc tấn công chính xác duy nhất.

 

Các cơ quan hoạch định chính sách thường cố tình giữ cho những giới hạn này mơ hồ để củng cố khả năng phản ứng linh hoạt của họ. Mặc dù các quan chức đôi khi công bố các ngưỡng rõ ràng, nhưng quá nhiều sự rõ ràng có thể làm suy yếu khả năng răn đe bằng cách cho phép các đối thủ biết họ có thể đi bao xa. Ngược lại, sự mơ hồ có thể tăng cường khả năng răn đe bằng cách buộc đối thủ phải kiềm chế, trừ khi họ vượt qua ngưỡng leo thang.

 

Hãy xem xét các tính toán của Philippines để đối phó với các hành động khiêu khích của Trung Quốc trong vùng biển xung quanh lãnh thổ của mình. Không rõ điều gì sẽ thúc đẩy Manila sử dụng vũ lực để đối phó với các động thái hung hăng của Trung Quốc chống lại các tàu của Philippines. Cũng không rõ Bắc Kinh sẽ phản ứng như thế nào trước các hành động của Manila và liệu một cuộc khủng hoảng như vậy có dẫn đến việc Philippines viện dẫn Hiệp ước Phòng thủ chung Mỹ-Philippines, vốn yêu cầu Washington bảo vệ đất nước này và do đó có thể kéo lực lượng Mỹ vào tranh chấp hay không. Sự không chắc chắn xung quanh những tương tác này có thể khiến Bắc Kinh thận trọng hơn so với những gì họ có thể làm.

 

Nhưng sự không chắc chắn cũng làm tăng khả năng các hành động khiêu khích sẽ dẫn đến một cuộc khủng hoảng có thể vượt khỏi tầm kiểm soát của một nhà lãnh đạo. Sự căng thẳng giữa việc sử dụng chiến tranh răn đe để gây áp lực lên đối thủ và mong muốn hạn chế leo thang buộc các nhà lãnh đạo phải điều hướng các cuộc khủng hoảng một cách thận trọng, thăm dò xem họ có thể đi bao xa trong khi vẫn kiểm soát được tình hình.

 

Trên bờ vực

 

Các cơ quan hoạch định chính sách phải cẩn thận điều chỉnh hành động của mình. Họ phải thể hiện đủ năng lực và quyết tâm để thúc đẩy mục tiêu của mình, đồng thời tạo không gian cho các nhà lãnh đạo đối thủ rút lui. Phần lớn, họ làm như vậy bằng cách tránh những hành động xúc phạm đáng kể đến danh dự của đối thủ và bằng cách dự đoán và sau đó không vượt qua lằn ranh đỏ của đối thủ.

 

Các quốc gia thường kiểm soát leo thang bằng cách hạn chế các tác động vật lý của các hành động cưỡng chế của họ. Việc tránh thương vong hoặc thiệt hại lớn về cơ sở hạ tầng giúp các quốc gia bị nhắm mục tiêu dễ dàng kiềm chế không trả đũa nghiêm trọng. Ví dụ, Nga và Iran đã bắn hạ drone quân sự của Mỹ để bày tỏ sự không hài lòng với các nhiệm vụ trinh sát của Washington, nhưng họ đã tránh được nguy cơ leo thang của việc bắn hạ một máy bay có người lái. Tương tự như vậy, Israel đã đáp trả cuộc tấn công hồi tháng Tư của Iran bằng cách tấn công một hệ thống radar duy nhất tại một địa điểm phòng không quan trọng của Iran thay vì tiến hành một chiến dịch lớn hơn và mang tính hủy diệt hơn. Mặc dù cuộc tấn công gây ra thiệt hại vật chất nhỏ, nhưng nó đã chứng minh khả năng của Israel trong việc nhắm mục tiêu vào các hệ thống tiên tiến sâu bên trong Iran. Vì cuộc tấn công gây ra thiệt hại hạn chế, Tehran có thể hạ thấp mức độ nghiêm trọng của cuộc tấn công đối với dư luận trong nước và tránh một cuộc trả đũa đáng kể.

 

 

Ngoài việc lựa chọn mục tiêu và sử dụng vũ khí chính xác, các quốc gia có thể giảm thiểu thiệt hại bằng cách cảnh báo trước về hành động của mình, cho phép các quốc gia bị nhắm mục tiêu tăng cường phòng thủ và ngăn chặn thiệt hại. Ví dụ, trước khi trả đũa cuộc tấn công của Israel vào đại sứ quán Iran ở Damascus hồi tháng Tư này, Tehran đã thông báo trước kế hoạch đáp trả của mình. Các quan chức Iran công khai đe dọa về các cuộc tấn công sắp xảy ra, bí mật cảnh báo các chính phủ trong khu vực về cuộc tấn công sắp xảy ra và nhắn tin cho Israel và phần còn lại của thế giới rằng họ không tìm kiếm một cuộc chiến tranh toàn diện. Vào thời điểm Iran phóng loạt hỏa tiễn và drone gần hai tuần sau đó, Israel và các đối tác của họ đã sẵn sàng bắn hạ hầu hết chúng trên không, bảo đảm thiệt hại vật chất và thương vong ở mức tối thiểu.

 

Nhưng việc hạn chế sự hủy diệt và thiệt hại về người chỉ là một phần của câu chuyện. Vị trí, thời gian và phương thức tấn công cũng có thể quan trọng không kém để kiểm soát leo thang, ngay cả khi hệ quả vật lý là như nhau. Các quan chức Iran chắc chắn sẽ coi việc Israel giết chết thủ lĩnh chính trị của Hamas, Ismail Haniyeh, ít khiêu khích hơn nhiều nếu nó diễn ra ở Gaza thay vì ở Tehran. Tương tự, Moscow có thể sẽ coi một cuộc tấn công bằng lực lượng mặt đất của Ukraine vào một căn cứ quân sự của Nga là leo thang hơn một cuộc tấn công bằng drone vào cùng một cơ sở đó.

 

Do đó, những người ra quyết định thường tránh những hành động thách thức trực tiếp lãnh thổ của đối thủ. Ví dụ, Washington tìm cách ngăn chặn các cuộc tấn công do Iran bảo trợ nhằm vào lực lượng Mỹ bằng cách nhắm mục tiêu vào các cơ sở của Lực lượng Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran và các lực lượng dân quân liên kết với Iran ở Iraq và Syria thay vì thực hiện các cuộc tấn công trực tiếp vào Iran. Khi làm như vậy, Mỹ ngầm thừa nhận rằng việc tấn công lãnh thổ Iran sẽ vượt qua ngưỡng leo thang.

 

Các cơ quan hoạch định chính sách cũng có thể sử dụng các công cụ cưỡng chế dễ chối bỏ hơn hoặc ít bị công chúng chú ý hơn. Vào những năm 1950, các phi công Liên Xô và Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh trên không bí mật trên Bán đảo Triều Tiên mà cả Washington và Moscow đều giấu kín công chúng. Ngày nay, Ukraine thường từ chối nhận trách nhiệm về các cuộc tấn công bằng drone của mình vào Nga. Các quốc gia cũng ngày càng sử dụng các chiến thuật “vùng xám” như chiến tranh mạng hoặc dựa vào các lực lượng ủy nhiệm như công ty bán quân sự Wagner của Nga để thúc đẩy mục tiêu theo cách mà họ có thể từ chối một cách hợp lý. Khoa học gia chính trị học, Austin Carson, lập luận rằng các hoạt động “hậu trường” này cho phép các chính phủ bí mật gây áp lực trong khi tránh các yêu cầu leo thang từ công chúng, những người thường trở nên hiếu chiến hơn sau các cuộc đối đầu rõ ràng dễ nhận thấy.

 

Một khi một quốc gia thực hiện các hành động cưỡng chế, các cơ quan hoạch định chính sách có thể tuyên bố ý định tránh leo thang hơn nữa. Sau cuộc tấn công bằng hỏa tiễn của Iran vào một căn cứ quân sự của Mỹ ở Iraq vào tháng Một năm 2020, Tehran đã đưa ra một tuyên bố công khai gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc nói rằng họ “đã thực hiện và kết thúc” các hoạt động quân sự để trả đũa vụ ám sát Thiếu tướng Qasem Soleimani của Washington, một chỉ huy hàng đầu của Iran, lưu ý rằng họ “không tìm kiếm leo thang hoặc chiến tranh.” Ngoại trưởng Iran Javad Zarif đã tweet một thông điệp tương tự, nhấn mạnh rằng các hành động quân sự của Iran đã được thực hiện và kết thúc. Mỹ đã không đưa ra phản ứng quân sự nào đối với vụ tấn công, thay vào đó chọn áp đặt thêm các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với các công ty và quan chức Iran.

 

Nhưng ngay cả sau khi kẻ tấn công đã đạt được mục tiêu của mình và đề nghị rằng họ không muốn đi xa hơn, đối thủ của họ phải tìm cách thiết lập lại sự răn đe. Các quan chức phải thiết lập lại các quy tắc giao chiến của họ, tạo ra các ngưỡng mới cho thấy rõ ràng rằng sự gây hấn trong tương lai sẽ vấp phải sự kháng cự. Phản ứng của Iran đối với vụ tấn công vào đại sứ quán Israel báo hiệu một trạng thái bình thường mới bằng cách thể hiện sự sẵn sàng tấn công trực tiếp vào lãnh thổ Israel, một nhiệm vụ mà Tehran trước đây đã giao cho các lực lượng ủy nhiệm khu vực của mình. Các quy tắc và ngưỡng mới, bất thành văn như vậy đã đẩy các mối quan hệ vốn đã căng thẳng lên nấc thang leo thang mới, tạo ra sự không chắc chắn và sợ hãi khiến các nhà lãnh đạo phải kiềm chế hơn.

 

Tuy nhiên, việc kiểm soát leo thang đi kèm với sự đánh đổi. Các hành động quá kiềm chế có thể không định hình được hành vi của đối thủ. Ví dụ, các cuộc tấn công của Mỹ vào các địa điểm drone và hỏa tiễn của Yemen đã không thể ngăn chặn được các cuộc tấn công của Houthi vào các tàu buôn trên Biển Đỏ. Mặc dù một phần đây là vấn đề chiến thuật—người Houthi rất giỏi trong việc che giấu và di chuyển các bệ phóng—nhưng Washington cũng thất bại vì hành động của họ không áp đặt đủ chi phí để buộc người Houthi và những người bảo trợ Iran của họ phải lùi bước. Các hành động quyết liệt hơn của Mỹ có thể ngăn chặn người Houthi hiệu quả hơn, nhưng chúng cũng có nhiều khả năng kích động sự leo thang của Iran. Sau đó, việc buộc người Houthi phải lùi bước bằng vũ lực có thể phải trả giá bằng sự leo thang chung trong khu vực, cuối cùng là một kết quả phản tác dụng hơn (chứ chưa nói tới nguy hiểm) cho tất cả những bên liên quan.

 

Cần hành động từ hai phía

 

Ngay cả những nỗ lực tốt nhất để tránh leo thang căng thẳng cũng có thể thất bại. Các cơ quan hoạch định chính sách có thể đánh giá sai ngưỡng chịu đựng của đối thủ, thực hiện các hành động mà đối phương coi là khiêu khích hơn dự định, như Israel đã làm khi tấn công đại sứ quán Iran ở Syria. Các quan chức Israel dự đoán một cuộc trả đũa nhỏ, không phải là một cuộc tấn công ồ ạt bằng hàng trăm hỏa tiễn và drone.

 

Nếu căng thẳng gia tăng, các quốc gia có thể cố gắng hạ nhiệt. Nhưng điều đó có thể là thách thức vì các cơ quan hoạch định chính sách phải đối mặt với áp lực tăng cường trong các cuộc khủng hoảng. Các nhà lãnh đạo lo sợ rằng việc tỏ ra yếu đuối sẽ gây hại cho họ về mặt chính trị. Cử tri có thể trừng phạt các nhà lãnh đạo tại các cuộc thăm dò vì đã không hành động. Các đối thủ khác theo dõi chặt chẽ hành vi khủng hoảng của một quốc gia để đánh giá khả năng và quyết tâm của quốc gia đó, và việc tỏ ra yếu đuối trong một cuộc khủng hoảng có thể làm suy yếu vị thế thương lượng của một quốc gia trong các cuộc đối đầu ở tương lai. Những lo ngại như vậy đặc biệt nghiêm trọng khi việc lùi bước liên quan đến việc từ bỏ một cam kết, chẳng hạn như thỏa thuận bảo vệ một quốc gia khác hoặc cam kết công khai đứng vững trong khủng hoảng. Ví dụ, trong tháng Chín, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Gilberto Teodoro tuyên bố rằng ông hy vọng vào sự can thiệp của Mỹ trong trường hợp Trung Quốc tấn công các tiền đồn quân sự của Philippines. Tương tự, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã nhiều lần mô tả cam kết quốc phòng của Washington đối với Philippines là “bất di bất dịch”. Do đó, Mỹ sẽ khó lùi bước khỏi các nghĩa vụ hiệp ước của mình mà không bị coi là không đáng tin cậy.

 

Vấn đề càng phức tạp hơn khi các công nghệ mới khiến việc tránh áp lực leo thang trở nên khó khăn hơn. Vệ tinh hình ảnh thương mại, điện thoại di động và các thiết bị thông minh khác tạo ra một thế giới ít bí mật hơn. Sự minh bạch gia tăng này khiến việc che giấu các hành động bí mật và vùng xám mà các nhà lãnh đạo thường sử dụng để tham gia vào các cuộc đối đầu hậu trường ít leo thang hơn trở nên khó khăn. Trong khi đó, mạng xã hội cung cấp một nền tảng cho nội dung kích động có thể châm ngòi cho sự leo thang.

 

Tuy nhiên, như cuộc tấn công ăn miếng trả miếng giữa Iran và Israel đã cho thấy, chiến tranh hầu như không bao giờ là không thể tránh khỏi. Con đường dẫn đến xung đột là một quy trình hành động-phản ứng. Các nhà lãnh đạo quyết định có nên đáp trả các động thái của đối thủ hay không và cách thức đáp trả, và họ thường tìm cách hạ nhiệt. Xét cho cùng, leo thang chiến tranh không phải lúc nào cũng vì lợi ích của một quốc gia. Chiến thắng không được bảo đảm và chi phí chiến tranh có thể lớn hơn lợi ích thu được. Do đó, các quốc gia thường tốt hơn hết là nên đạt được một thỏa thuận thúc đẩy các mục tiêu chiến lược của họ mà không cần phải chiến đấu, ngay cả khi một nhà lãnh đạo phải chịu hậu quả về chính trị hoặc danh tiếng vì điều đó.

 

Xuống thang căng thẳng

 

Để tránh chơi trò mà học giả quan hệ quốc tế James Fearon gọi là “trò xổ số tốn kém” của chiến tranh, các nhà lãnh đạo tìm cách lùi bước khỏi sự leo thang khủng hoảng căng thẳng trong khi vẫn giữ được danh tiếng và bảo đảm sự răn đe. Để làm như vậy, các cơ quan hoạch định chính sách phải đưa ra các thỏa thuận mà trong đó tất cả các bên có thể tuyên bố thành công hoặc tìm thấy lối thoát trong danh dự. Ví dụ, trong cuộc trao đổi giữa Iran và Israel vào mùa xuân năm ngoái, Tehran đã có thể thể hiện sức mạnh trước công chúng trong nước và quốc tế chỉ bằng cách thể hiện khả năng tiến hành các cuộc tấn công quy mô lớn vào Israel, mặc dù cuộc tấn công gây ra thiệt hại tối thiểu. Về phần mình, các nhà lãnh đạo Israel nhấn mạnh rằng họ có thể bảo vệ đất nước khỏi ngay cả một cuộc tấn công ồ ạt.

 

Các nhà lãnh đạo đối thủ cũng có thể ngầm thông đồng với nhau để tránh chiến tranh. Điều này thường liên quan đến việc cùng nhau quyết định giữ bí mật hành động của nhau trước công chúng. Vào những năm 1950, để tránh gây áp lực leo thang, cả Moscow và Washington đều không tiết lộ về cuộc chiến tranh trên không của họ ở Triều Tiên. Ngoài sự phối hợp ngầm như vậy, giao tiếp giữa các đối thủ, trực tiếp hoặc thông qua trung gian (chẳng hạn như Qatar, trong trường hợp của Israel và Hamas), có thể giúp các nhà lãnh đạo tránh chiến tranh. Các quan chức có thể làm rõ ý định và ngưỡng chịu đựng và xoa dịu căng thẳng sau tai nạn, tránh tính toán sai lầm và leo thang hơn nữa. Có tiền lệ đáng kể cho loại hình phối hợp kiểu này. Những thời điểm mà chiến tranh suýt nữa đã xảy ra trong cuộc khủng hoảng hỏa tiễn Cuba đã thúc đẩy Washington và Moscow thiết lập đường dây nóng khủng hoảng vào năm 1963, và Mỹ đã thiết lập một kết nối tương tự với Bắc Kinh vào năm 2007. Các đối thủ khác có thể hưởng lợi từ việc mô phỏng cách tiếp cận này.

 

Khi các cuộc khủng hoảng trở nên phổ biến và dữ dội hơn, vai trò của các nhà lãnh đạo trong việc kéo các quốc gia ra khỏi bờ vực chiến tranh ngày càng trở nên quan trọng. Khi căng thẳng đẩy các quốc gia đến bờ vực, những người ra quyết định phải chơi một trò chơi mặc cả với rủi ro cao và xác định cách theo đuổi mục tiêu của họ và ngăn chặn tác hại trong tương lai đồng thời tránh chiến tranh. Nhưng họ không cần phải hoảng sợ về các cuộc chiến tranh vô ý. Công cụ kiềm chế luôn nằm trong tay họ.

 

 

Erik Lin-Greenberg là  Phó Giáo sư Phát triển Sự nghiệp Leo Marx tại Khoa Khoa học Chính trị tại Viện Công nghệ Massachusetts.

 

 

(nghiencuuquocte.org)