Ảnh minh họa thủ tướng Israel, B. Netanyahu nhân cuộc họp báo ngày 21/05/2025. REUTERS - Ronen Zvulun
DO THÁI - Ngày 13/06/2025, thủ tướng Israel ra lệnh tiến hành một loạt cuộc không kích quy mô lớn nhắm vào các cơ sở quân sự và nguyên tử của Iran. Giữa lúc còn chưa giải quyết xong cuộc chiến tranh Gaza với Hamas, việc Israel mở mặt trận tấn công Iran không chỉ làm gia tăng căng thẳng trong khu vực, mà còn đặt ra nhiều câu hỏi về động cơ chiến lược của thủ tướng Benyamin Netanyahu.
Israel và Iran, hai quốc gia từ hàng chục năm nay coi nhau là kẻ thù không đội trời chung. Yếu tố hàng đầu khiến Israel lo ngại chính là chương trình nguyên tử của Iran. Dù Teheran nhiều lần khẳng định chương trình nguyên tử của họ mang mục đích dân sự và chịu sự giám sát của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA).
Israel tuyên bố, cuộc tấn công này là một hành động « phòng vệ chủ động », dựa trên các thông tin tình báo cho thấy Teheran đang tiến gần tới tiêm năng chế tạo võ khí nguyên tử. Theo báo cáo mới nhất của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), Iran đã tích trữ hơn 9.200 kg uranium được làm giàu – cao gấp 45 lần giới hạn quy định trong Thỏa thuận nguyên tử Vienna năm 2015. Đáng lo ngại hơn, 408,6 kg trong số này đã được làm giàu ở mức 60%, không xa ngưỡng 90% đủ để chế tạo bom nguyên tử.
Israel luôn coi một Iran có võ khí nguyên tử là mối đe dọa sinh tồn. Vì vậy, khi Iran bị cáo buộc vi phạm nghĩa vụ quốc tế và chương trình nguyên tử có dấu hiệu vượt ra ngoài tầm kiểm soát của quốc tế, Tel Aviv coi đây là thời điểm cần thiết để ra tay ngăn chặn.
Đợt tấn công của Israel diễn ra ngay trước vòng đàm phán nguyên tử thứ sáu giữa Teheran và Washington dự kiến tổ chức tại Oman vào Chủ nhật (15/06). Tuy nhiên, cuộc gặp đã bị hủy ngay sau vụ không kích của Israel.
Tình trạng đình trệ trong đàm phán, đặc biệt là bất đồng về mức độ làm giàu uranium, càng khiến Israel lo ngại và có thể đã thúc đẩy nước này « ra đòn » trước khi Iran đạt được thêm tiến bộ nguyên tử.
Theo giới quan sát, Israel chưa bao giờ ủng hộ các nỗ lực đàm phán này. Thủ tướng Netanyahu luôn giữ quan điểm cứng rắn: chương trình nguyên tử của Iran cần bị dỡ bỏ hoàn toàn, chứ không thể chấp nhận được dù chỉ là dưới sự giám sát quốc tế.
Một yếu tố khác được chánh quyền Netanyahu coi là thời cơ là sự suy yếu của chế độ Iran trên cả phương diện đối nội lẫn đối ngoại. Nhiều đồng minh trong khu vực như Hezbollah (Liban), Hamas (Gaza) đều trong tình trạng suy yếu và chánh quyền Syria của Bachar al Assad đã bị lật đổ.
Về đối nội, Iran đang đối mặt với khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng do các lệnh trừng phạt kéo dài. Sự bất mãn xã hội tăng cao và nền kinh tế kiệt quệ khiến cơ hội phản kháng của Teheran trở nên hạn chế.
Israel không hành động đơn độc. Mỹ là đồng minh chiến lược quan trọng và cũng có mối quan ngại sâu sắc về Iran. Trong khi đó, nhiều nước Ả Rập vùng Vịnh như Ả Rập Saudi, Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất (UAE) hay Bahrain cũng xem Iran là mối đe dọa lớn nhất đối với an ninh của họ.
Một cuộc xung đột với Iran có thể được Israel coi là cơ hội củng cố một mặt trận khu vực chống Iran trên cơ sở thỏa thuận Abraham, đồng thời siết chặt mối quan hệ quân sự với Mỹ.
Đối với Israel, cuộc tấn công vào Iran cũng được cho là một nỗ lực của chánh quyền Netanyahu nhằm đánh lạc hướng dư luận quốc tế khỏi cuộc chiến đang diễn ra ở Dải Gaza, nơi Israel đang chịu áp lực ngày càng lớn về nhân đạo và ngoại giao. Sức ép quốc tế buộc Tel Aviv phải giảm cường độ tấn công hoặc cho phép viện trợ nhân đạo vào Gaza đã gia tăng mạnh mẽ trong những tuần gần đây.
Giới quan sát quốc tế nhận thấy, không phải ngẫu nhiên khi cuộc tấn công diễn ra chỉ vài ngày trước một hội nghị quan trọng của Liên Hiệp Quốc về việc công nhận Nhà nước Palestine, một sự kiện có thể gia tăng sức ép buộc Israel phải chấp nhận giải pháp hai Nhà nước. Ngay sau nổ ra cuộc tấn công của Israel, tổng thống Pháp Emmanuel Macron, dự định đồng chủ trì cuộc họp với Ả Rập Saudi đã phải hoãn chuyến đi New York vì lý do « hậu cần và an ninh ». Việc hủy dự cuộc họp này làm « ảnh hưởng đến quyết tâm của chúng ta tiến tới thực hiện giải pháp hai Nhà nước » Palestine và Israel, theo đánh giá của tổng thống Pháp. Việc tạo ra một cuộc khủng hoảng mới với Iran có thể khiến dư luận quốc tế phân tán và làm chậm tiến trình ngoại giao bất lợi cho Israel.
Mở cuộc tấn công Iran, thủ tướng Netanyahu cũng toan tính một ý đồ nội bộ. Thủ tướng hiện đang đối mặt với làn sóng phản đối rộng khắp trong nước, từ chuyện cải cách tư pháp gây tranh cãi cho đến các cuộc biểu tình phản đối cách ứng xử cuộc chiến tranh tại Gaza, nhất là trong vấn đề giải thoát con tin trong tay Hamas. Ngày càng đông đảo dân chúng yêu cầu ông từ chức. Đồng thời, nội các liên minh của ông cũng đã xuất hiện những rạn nức do những mâu thuẫn sâu sắc.
Trong bối cảnh đó, một chiến dịch quân sự lớn có thể tạo ra hiệu ứng đoàn kết người dân xung quanh chánh phủ trong thời kỳ khủng hoảng. Lịch sử Israel từng ghi nhận các hành động quân sự được sử dụng như công cụ để củng cố vị thế chánh trị, và Netanyahu, một chánh trị gia kỳ cựu, chắc hẳn cũng không bỏ qua chiến lược này.
Cuộc tấn công của Israel vào Iran không chỉ đơn thuần là một hành động leo thang quân sự mà là kết quả của nhiều yếu tố đan xen giữa các yếu tố an ninh quốc gia, quan hệ địa chánh trị rắc rối trong khu vực Trung Đông cộng với những tính toán chánh trị nội bộ. Với thủ tướng Netanyahu, đây có thể là thời điểm cuối cùng để « thay đổi luật chơi » trên bàn cờ Trung Đông trước khi quá muộn. Câu hỏi lớn hiện nay không chỉ là « vì sao Israel hành động? », mà là : liệu khu vực có thể tránh được một cuộc chiến tranh toàn diện sau hành động phiêu lưu này hay không?
(Theo RFI)