Những người lính Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc ngắm nhìn hỏa tiễn Đông Phong 1 do Trung Quốc sản xuất từ lan can tại Bảo tàng Quân sự ở Bắc Kinh vào ngày 6 tháng Mười hai năm 2004. Frederic J. Brown/AFP qua Getty Images
Nguồn: Triệu Thông, “Is China Changing Its Nuclear Launch Strategy?”, Foreign Affairs, 05/08/2025
Biên dịch: Viên Đăng Huy (nghiencuuquocte.org)
Phụ đính: Dan Viet News.
Trong chuyến thăm Moscow vào tháng Năm, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã công bố tuyên bố chung với Tổng thống Nga Vladimir Putin, nhấn mạnh trách nhiệm đặc biệt của các quốc gia sở hữu võ khí nguyên tử trong việc “bác bỏ tư duy Chiến tranh Lạnh” và “kiềm chế các hành động tạo ra rủi ro chiến lược”.
Trong nhiều thập niên, Trung Quốc đã đi theo một con đường hơi khác so với hai siêu cường nguyên tử của thế giới, duy trì lập trường nguyên tử tương đối ôn hòa so với Mỹ và Liên Xô. Nước này giữ võ khí nguyên tử ở trạng thái báo động thấp trong thời bình và vẫn là quốc gia duy nhất cam kết không bao giờ xử dụng võ khí nguyên tử trước trong bất kỳ điều kiện nào.
Tuy nhiên, một số hành vi cho thấy Trung Quốc có thể đang chuẩn bị áp dụng một trong những chiến thuật nguyên tử nguy hiểm nhất của Chiến tranh Lạnh – phóng đầu đạn nguyên tử trước khi có thể bị tấn công nguyên tử (Launch Under Attache - LUA) – như một phần của việc mở rộng đáng kể năng lực nguyên tử của mình.
LUA là một chính sách cho phép giới lãnh đạo chánh trị cho phép các cuộc phản công nguyên tử được thi hành nhanh chóng dựa trên dữ liệu cảnh báo sớm. Nếu một quốc gia phát hiện một cuộc tấn công nguyên tử đang đến, lãnh đạo của họ có thể phóng đầu đạn nguyên tử trả đũa ngay lập tức trước khi đầu đạn nguyên tử của đối phương kích nổ trên lãnh thổ của mình.
Cho đến nay, chỉ có Mỹ và Nga mới áp dụng LUA. Mỹ đã tìm kiếm các lựa chọn để giảm vai trò của LUA trong sách lược nguyên tử của mình dưới thời cựu Tổng thống Barack Obama nhưng cuối cùng đã chọn duy trì nó. Trong khi đó, Nga đã mở rộng các tinh huống mô phỏng mà họ có thể phóng đầu đạn nguyên tử phản ứng ngay lập tức – từ việc phản ứng chủ yếu với hỏa tiễn đạn đạo đang đến cho đến việc bao gồm “dữ liệu đáng tin cậy về việc phóng hàng loạt” phi cơ, hỏa tiễn hoặc drone vượt qua biên giới của mình – làm giảm đáng kể ngưỡng phản ứng nguyên tử.
Trong khi một số quan chức ngoại giao Trung Quốc đã công khai kêu gọi tất cả các quốc gia nguyên tử từ bỏ LUA, Trung Quốc dường như đang âm thầm xây dựng hạ tầng cơ sở cần thiết để tự mình áp dụng LUA – mà không đưa ra bất kỳ giải thích công khai nào về các tình huống hoặc chính sách liên quan.
Đáng chú ý, nước này đang xây dựng một hệ thống cảnh báo sớm toàn diện, bao gồm các vệ tinh hồng ngoại và radar mặt đất lớn, để phát hiện các cuộc tấn công tiềm tàng.
Các bài viết quân sự của Trung Quốc cũng ngày càng ủng hộ khái niệm LUA, được gọi là “phản công cảnh báo sớm”, trình bày các cuộc thảo luận chi tiết về thiết kế và thực hiện LUA đồng thời khẳng định tính tương thích của chính sách này với chính sách không xử dụng võ khí nguyên tử trước của Trung Quốc.
Chính sách LUA, dù được cho là có lợi ích răn đe, nhưng lại tiềm ẩn những rủi ro nghiêm trọng dẫn đến xung đột nguyên tử không đáng có. Nếu Bắc Kinh thực sự đang khám phá chính sách này, cần có một cuộc tranh luận rộng rãi và công khai, thay vì để nó cho một nhóm nhỏ, bí mật gồm các quan chức hoạch định quân sự. Nếu quyết định áp dụng LUA đã được đưa ra, có một số biện pháp giảm thiểu rủi ro đơn phương và hợp tác mà các nhà lãnh đạo có thể áp dụng để giúp bảo vệ chống lại những điều tồi tệ nhất.
LUA luôn tiềm ẩn rủi ro, nhưng những thay đổi trong môi trường an ninh quốc tế trong những thập niên gần đây khiến nó còn rủi ro hơn và phức tạp hơn đối với Trung Quốc ngày nay so với thời Chiến tranh Lạnh.
Trong khi các viên chức lãnh đạo Mỹ và Liên Xô chỉ cần theo dõi hỏa tiễn đạn đạo với quỹ đạo dễ đoán, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với hỏa tiễn tân tiến có đường bay thay đổi được, khiến việc đánh giá quỹ đạo và mối đe dọa trở nên khó khăn hơn nhiều. Thêm vào đó, việc phân biệt giữa hỏa tiễn thông thường và hỏa tiễn nguyên tử có thể rất khó, thậm chí bất khả thi, làm cho việc đưa ra quyết định trả đũa trở nên phức tạp hơn.
Việc Trung Quốc nằm gần các mục tiêu tiềm năng khác của Mỹ càng làm tăng thêm sự không chắc chắn. Nga, Trung Quốc, và Bắc Hàn đều được cho là duy trì một số cơ sở phân hạch nguyên tử hoặc hỏa tiễn chiến lược gần biên giới Trung Quốc. Trong một cuộc khủng hoảng, hệ thống cảnh báo sớm của Trung Quốc có thể không đủ tin cậy để xác định liệu hỏa tiễn Mỹ hướng tới Đông Bắc Á đang nhắm vào Nga, Bắc Hàn hay chính Trung Quốc, đặc biệt là do tính năng thay đổi quỹ đạo vào phút cuối.
Các quan chức lãnh đạo Trung Quốc sẽ phải đối mặt với nhiệm vụ khó khăn là đánh giá các mối đe dọa, đánh giá ý đồ, cân nhắc các lựa chọn và hậu quả, và quyết định trong vòng vài phút liệu và làm thế nào để trả đũa. Đạt được sự chắc chắn tuyệt đối rằng cảnh báo tấn công không phải là kết quả của sự cố kỹ thuật, lỗi của con người hoặc sự can thiệp mạng của đối phương là một thách thức không kém phần ghê gớm.
Theo truyền thống, Trung Quốc đã lưu trữ đầu đạn riêng biệt với hệ thống phóng, điều này làm chậm trễ việc trả đũa nguyên tử hàng giờ, nếu không phải là vài ngày, sau một cuộc tấn công. LUA sẽ yêu cầu gắn đầu đạn nguyên tử vào ít nhất một số hệ thống phóng, điều này làm tăng nguy cơ xảy ra các sự cố an toàn và an ninh nguyên tử. Mỹ và Nga đã dành hàng thập niên để vật lộn với các báo động giả và các sự cố suýt xảy ra đã tạo ra một số thời điểm nguy hiểm nhất của Chiến tranh Lạnh. Áp dụng LUA, Trung Quốc có thể tự đặt mình – và cả cộng đồng quốc tế – vào những rủi ro nghiêm trọng tương tự, bất chấp việc nước này luôn kêu gọi tránh một cuộc Chiến tranh Lạnh mới.
Việc áp dụng LUA cũng thách thức quyền kiểm soát tuyệt đối của giới lãnh đạo chính trị Trung Quốc đối với việc ra quyết định nguyên tử. Do thời gian ra quyết định bị rút ngắn, Quân đội Trung Quốc có thể sẽ phải gánh vác trách nhiệm lớn hơn trong việc lên kế hoạch các lựa chọn trả đũa, trao cho quân đội quyền quyết định nguyên tử ở mức độ chưa từng có.
Mặc dù chứa đựng những rủi ro rõ ràng, việc áp dụng LUA vẫn có thể mang lại cho Trung Quốc một số lợi ích an ninh nhỏ.
Nó có thể tăng cường năng lực răn đe chống lại một cuộc tấn công nguyên tử quy mô lớn bất ngờ trong thời bình, hoặc ngăn chặn một sự leo thang mạnh mẽ dẫn đến đòn tấn công tước vũ khí quy mô lớn trong một cuộc xung đột thông thường hoặc nguyên tử giới hạn, rủi ro cao là ở khu vực eo biển Đài Loan.
Tuy nhiên, trong các tình huống mô phỏng thực tế hơn, liên quan đến leo thang dần dần, ít rõ ràng – với những chu kỳ đáp trả nguyên tử ăn miếng trả miếng – sẽ không có dấu hiệu rõ ràng cho biết khi nào Trung Quốc nên hoặc phải kích hoạt phản ứng LUA. Nếu không có sự rõ ràng như vậy, một cuộc tấn công nguyên tử của Mỹ có vẻ “tương xứng” đối với những người ra quyết định của Mỹ có thể vô tình vượt qua ngưỡng LUA của Trung Quốc, có thể gây ra một cuộc chiến tranh nguyên tử toàn diện.
Giới lãnh đạo chính trị Trung Quốc có thể chưa đánh giá đầy đủ hậu quả của LUA. Nhưng với những lợi ích ít ỏi về mặt quân sự và rủi ro an ninh nghiêm trọng, Bắc Kinh không nên tiếp tục theo đuổi nó.
Các hệ thống cảnh báo sớm vẫn đang được phát triển sẽ vẫn có giá trị để hỗ trợ các chương trình khác của Trung Quốc, bao gồm phòng thủ hỏa tiễn, ngay cả khi chúng không được xử dụng đặc biệt cho LUA. Khi kho võ khí nguyên tử của Trung Quốc phát triển, nước này cũng không cần một chính sách phóng đầu đạn tấn công trước.
Trên thực tế, chỉ cần duy trì vẻ ngoài của một lập trường LUA, Trung Quốc đã có thể tạo ra đủ sự không chắc chắn để răn đe Mỹ, mà không cần thực sự lên kế hoạch phóng đạn khi bị tấn công. Thật vậy, trong Chiến tranh Lạnh, các cơ quan sách lược của Mỹ nhận ra rằng, để răn đe, niềm tin của đối thủ rằng Mỹ sẽ phóng đầu đạn khi bị tấn công quan trọng hơn sự sẵn sàng thực tế của Washington trong việc làm như vậy.
Nếu quyết định áp dụng LUA đã được đưa ra, Trung Quốc ít nhất nên thực hiện các biện pháp bảo vệ để giảm thiểu những rủi ro gây mất ổn định nhất.
Ví dụ, nước này có thể chọn phóng đầu đạn chỉ sau khi xác nhận một vụ nổ nguyên tử trên lãnh thổ của mình nhưng trước khi phần lớn đầu đạn của Mỹ đã rơi xuống, thay vì chỉ dựa vào việc phát hiện một vụ phóng. Ngoài ra, nước này có thể yêu cầu bất kỳ cảnh báo tấn công hỏa tiễn nào phải được xác minh thông qua ít nhất hai loại cảm biến độc lập để giảm nguy cơ báo động giả. Trung Quốc có thể đã đi theo hướng này bằng cách phát triển cả máy dò hồng ngoại dựa trên vệ tinh và radar mặt đất. Tuy nhiên, để nhất quán duy trì các tiêu chuẩn này chống lại các công nghệ đang phát triển đòi hỏi các chỉ thị rõ ràng, vững chắc, cấp cao.
Tình huống gây mất ổn định nhất sẽ là nếu việc Trung Quốc theo đuổi LUA báo hiệu một sự thay đổi rộng lớn hơn trong học thuyết nguyên tử của nước này theo hướng nhắm mục tiêu vào các lực lượng nguyên tử của đối phương và giảm thiểu thiệt hại trong một cuộc chiến tranh nguyên tử. Theo truyền thống, chiến lược nguyên tử của Trung Quốc không ưu tiên các cuộc tấn công chống lại các lực lượng nguyên tử hoặc trung tâm chỉ huy và kiểm soát của đối phương. Nhưng dưới LUA, các mục tiêu như vậy có thể trở nên phù hợp hơn, có thể hướng Trung Quốc đến việc chấp nhận nhiều hơn việc tác chiến nguyên tử
Mặc dù có ít bằng chứng cho thấy Trung Quốc đang theo đuổi một sự thay đổi sách lược triệt để như vậy, các cơ quan sách lược của Mỹ lo ngại về kho vũ khí ngày càng tăng của Trung Quốc và có thể nhắm mục tiêu vào các lực lượng nguyên tử của Mỹ. Cũng giống như Mỹ đã áp dụng LUA để đối phó với năng lực tiêu diệt mạnh được nhận thấy của Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh, những lo ngại tương tự về Trung Quốc có thể đẩy Mỹ đến việc tăng cường phụ thuộc vào LUA trong tương lai – một sự thay đổi có thể làm suy yếu an ninh của Trung Quốc về lâu dài.
Một điểm sáng tiềm năng ở đây là việc Trung Quốc nghiên cứu LUA có thể khiến Bắc Kinh thấu hiểu hơn những lo ngại của Mỹ về một số tình huống và hành vi quân sự của chính Trung Quốc. Điều này, đổi lại, có thể mở ra những con đường mới cho các biện pháp giảm thiểu rủi ro đơn phương hoặc hợp tác.
Ví dụ, LUA đòi hỏi các hệ thống chỉ huy, kiểm soát và thông tin liên lạc nguyên tử mạnh mẽ, bao gồm các cảm biến cảnh báo sớm hoạt động. Cả Mỹ và Trung Quốc có thể sẽ đánh giá cao việc thiết lập sự hiểu biết chung về việc không nhắm mục tiêu vào các khí tài quan trọng này.
Bắc Kinh cũng có thể hiểu rõ hơn về khó khăn thực sự mà Washington phải đối mặt trong việc đánh giá bản chất của một cuộc tấn công hỏa tiễn đang đến của Trung Quốc – đặc biệt là khi các hỏa tiễn có thể cơ động và tải trọng của chúng không rõ ràng. Nhận ra rằng bất kỳ đánh giá sai hoặc phản ứng thái quá nào của Mỹ trong một tình huống như vậy có thể gây ra hậu quả thảm khốc cho Trung Quốc có thể khuyến khích Bắc Kinh xem xét các mối nguy và cơ hội của riêng mình được cho là đang được phát triển, bao gồm hỏa tiễn đạn đạo liên lục địa mang đầu đạn thông thường và hỏa tiễn tầm xa có thể mang cả đầu đạn nguyên tử hoặc thông thường.
Washington cũng có những lo ngại đáng kể về việc Bắc Kinh được báo cáo đang phát triển một hệ thống oanh tạc quỹ đạo – một hệ thống võ khí nguyên tử có thể được phóng vào không gian vũ trụ và sau đó, với thời gian cảnh báo tối thiểu, bay xuống và tấn công các mục tiêu, bao gồm giới lãnh đạo đối phương hoặc các cơ sở chỉ huy và kiểm soát nguyên tử quan trọng. Những lo ngại của Mỹ về loại vũ khí “vượt qua cảnh báo sớm” đó giờ đây có thể gây được tiếng vang lớn hơn với các chuyên gia an ninh Trung Quốc, những người mà từ trước đến nay đã từ chối đánh giá nghiêm túc những mối lo ngại này.
Khi Trung Quốc khám phá LUA, Mỹ nên xem xét các yếu tố chính trong sách lược nguyên tử của riêng mình có thể thúc đẩy Trung Quốc xem xét một lập trường như vậy, bao gồm tính khả thi và rủi ro dài hạn của sách lược giảm thiểu thiệt hại của mình.
Về phần mình, các quan chức hoạch định chính sách Trung Quốc nên tiến hành các đánh giá nghiêm túc về toàn bộ ý nghĩa an ninh của LUA, bao gồm cách nó có thể làm xói mòn quyền kiểm soát của giới lãnh đạo chính trị đối với chiến lược nguyên tử. Bắc Kinh cũng nên nhận ra rằng ngay cả những quyết định ở cấp độ tác chiến dường như cũng có thể có những hậu quả rộng lớn, cấp độ chiến lược. Những lựa chọn của nước này liên quan đến mức độ hợp tác với Nga về các hệ thống cảnh báo sớm – và liệu có chia xẻ (chia sẽ) dữ liệu cảnh báo sớm hay không – có thể ảnh hưởng đến nhận thức của Mỹ về sự hội nhập nguyên tử Trung-Nga, có tiềm năng định hình lại mối quan hệ tam giác nguyên tử.
Cuối cùng, Trung Quốc đang đứng trước ngã ba đường, và lựa chọn của nước này có thể ảnh hưởng đến những mối nguy hiểm nguyên tử trong nhiều thập niên tới. Bắc Kinh có thể chọn mô phỏng những khía cạnh gây mất ổn định nhất của các sách lược nguyên tử Chiến tranh Lạnh, hoặc nước này có thể tạo ra một con đường kiểm soát có chủ ý và kiềm chế mang tính chiến lược. Lịch sử sẽ phán xét Trung Quốc không chỉ bằng những gì nước này xây dựng, mà còn bằng sự khôn ngoan mà nước này từ bỏ.
Triệu Thông là nghiên cứu viên cao cấp trong Chương trình Chánh sách Nguyên tử và Trung tâm Trung Quốc tại Quỹ Hòa bình Quốc tế Carnegie.