Lãnh tụ ĐCSTQ Mao Trạch Đông (Trái) đón Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon, tại nhà của ông ở Bắc Kinh hôm 21/02/1972. (Ảnh: AFP qua Getty Images)

 

 

 

Có thể, Trung Quốc đang phải chứng kiến khoảnh khắc lụi tàn giữa ánh nắng mặt trời như Nhật Bản 30 năm trước đây, rất nhiều sai lầm chiến lược và các con số thống kê tài chính của nền kinh tế đã chỉ ra điều đó.

 

Trong phần lớn thế kỷ XX, Trung Quốc không phải là một trong những quốc gia đáng chú ý nhất trên đấu trường thế giới. Trong những năm trước Đệ nhị Thế chiến, đất nước này đã bắt đầu đối phó với một phong trào cộng sản nổi dậy sớm chống lại Quốc dân đảng (KMT) cầm quyền. Tuy nhiên, sự phát triển này không ghi dấu ấn nhiều trong tâm lý thế giới vào thời điểm đó như các phong trào cộng sản ở các quốc gia phương Tây trước đó; một phần lớn là do Trung Quốc là một xã hội tương đối khép kín.

 

Trong một khoảng thời gian, phe cộng sản và phe Quốc Dân Đảng này buộc phải liên kết với nhau để chống lại quân xâm lược Nhật Bản vào cuối những năm 1930. Nhưng ngay khi Nhật Bản bị đánh bại, lực lượng ĐCSTQ dưới thời Mao Trạch Đông lại tiếp tục cuộc cách mạng của họ. Anh hùng quân sự chân chính của Trung Quốc trong cuộc chiến, người đã lãnh đạo cuộc chiến chống lại sự xâm lược của Nhật Bản - ông Tưởng Giới Thạch - đã thất bại trước phe cộng sản, buộc phải đưa tàn tích của chính phủ Quốc dân đảng và quân đội rời Trung Quốc đến Đài Loan.

 

Cuối cùng thì “Chiến tranh giải phóng” [mà ĐCSTQ vẫn luôn nhận là thành tích của họ] đã hoàn tất dưới thời Mao. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của ĐCSTQ, mọi lời hứa về thịnh vượng, công bằng đều biến mất theo thời gian; ĐCSTQ thậm chí còn nỗ lực làm biến mất cả nền văn minh 5.000 năm.

 

Sự thịnh vượng đã tránh xa dân chúng, nhưng cái chết thì không. Cho đến ngày nay, dù Mao Chủ tịch thường không phải là cái tên được thốt ra đầu tiên khi trả lời cho câu hỏi "Ai là kẻ sát nhân hàng loạt lớn nhất trong thế kỷ 20?" Nhưng số người chết bởi Mao đã vượt qua Hitler của Đức và Stalin của Nga cộng lại; ước tính có khoảng 65 triệu người Trung Quốc chết dưới sự cai trị của ông ta.

 

Vì vậy, khi Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon thực hiện đàm phán và “mở cửa Trung Quốc” với thế giới vào năm 1972, đó là một động thái gây tranh cãi cực kỳ lớn. Nhiều người đã bối rối rằng ông Nixon già, kiên quyết chống cộng sản lại “tẩy trắng” [tội giết người hàng loạt] của Mao Chủ tịch.

 

Vì kinh ngạc trước động thái của Nixon, sự khinh bỉ đối với ông ta dậy sóng trên chính trường. Một người bạn quá cố của tôi ông John Schmitz - nghị sĩ Đảng Cộng hòa truyền thống ở California, đã có câu trả lời nổi tiếng khi được hỏi về việc ông Nixon đi thăm Trung Quốc: “Tôi không quan tâm đến việc ông Nixon đã đến Trung Quốc; Tôi chỉ buồn vì ông ta đã quay trở lại [nước Mỹ]”.

 

Vào thời điểm đó, rất ít người Mỹ hiểu rằng động thái của Nixon sẽ nhanh chóng biến Trung Quốc thành đối thủ toàn cầu mới, lớn nhất của Mỹ. Nếu không có sự hỗ trợ tài chính từ Mỹ, cũng như lòng tham khai thác lợi ích tài chính ở Trung Quốc thì sự thịnh vượng của Bắc Kinh sẽ không bao giờ xảy ra.

 

Rốt cuộc, chủ nghĩa cộng sản không đột nhiên trở thành công cụ hình thành tư bản, không tạo ra sự thịnh vượng và mức sống tốt hơn. Trực tiếp tiếp tay bởi các lợi ích doanh nghiệp của Hoa Kỳ (mặc dù một số quốc gia phương Tây khác cũng hành động tương tự ở các mức độ thấp hơn) Trung Quốc đã được biến thành trung tâm sản xuất của thế giới, do lao động rẻ và tiêu chuẩn lỏng lẻo. Được thúc đẩy bởi khả năng thay thế công nhân Mỹ được trả lương cao hơn, hầu hết các tập đoàn thuộc mọi ngành nghề đã hành động để biến Trung Quốc trở thành một thuộc địa tài chính của Mỹ ngay từ khi Bắc Kinh bắt đầu mở cửa.

 

Trong một tác phẩm xuất sắc trong American Spectator vào năm 2011, nhà kinh tế học và từng là ứng cử viên thống đốc một thời ở New York, ông Lewis Lehrman đã mô tả chính xác động thái này. Các tập đoàn kinh tế - tài chính Mỹ thực sự đã coi Trung Quốc là thuộc địa kinh tế - tài chính của họ; các tập đoàn là một phần quan trọng trong việc giữ quyền bá chủ đồng USD như một loại tiền dự trữ toàn cầu. Dù cách các tập đoàn kinh tế Mỹ làm với Bắc Kinh khác với những gì họ làm với Nam Mỹ và các quốc gia phát triển khác. Nhưng về mục tiêu, nó không khác gì mối quan hệ của Anh với các quốc gia thuộc địa Ấn Độ.

 

Trong những năm qua, vị thế nhà sản xuất toàn cầu của Trung Quốc ngày càng được củng cố. Nhiều ngàn tỷ USD thặng dư đã được Trung Quốc sử dụng trong thời gian này; trở thành nhà cung cấp hàng hoá toàn cầu lớn nhất mọi thời đại. Mối quan hệ cộng sinh kỳ quặc này đã mang lại lợi ích to lớn cho các tài phiệt, công ty Mỹ, những công ty có lợi nhuận lớn hơn khi họ không còn phải trả mức lương đắt đỏ nhất cho các công dân Mỹ .

 

Trung Quốc tận dụng điều này vô cùng hiệu quả, sử dụng nguồn vốn đổ vào từ Mỹ, sử dụng vị thế công xưởng toàn cầu để đi xa hơn sự tưởng tượng của Mỹ: Trung Quốc không chỉ mua lại thị trường tài chính Mỹ như Nhật Bản năm xưa. Trung Quốc còn sử dụng nợ (khối nợ lớn nhất toàn cầu) để mở rộng kế hoạch quân sự, chính trị, truyền thông vượt qua Mỹ; tìm cách khôi phục lại vinh quang của đế chế lâu đời.

 

Tuy nhiên, các quyết định gần đây của vị Hoàng đế đỏ thời hiện đại, Chủ tịch Tập Cận Bình, đã làm tăng khả năng sụp đổ mọi thành quả kinh tế - tài chính khổng lồ của chế độ; cũng như Nhật Bản 30 năm trước khi khoảnh khắc của họ lụi tàn trong ánh nắng mặt trời. 

 

Quan điểm trong bài viết là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của NTDVN.

Tác giả Chris Temple đã có hơn 50 năm kinh nghiệm viết bài và đào tạo trong lĩnh vực đầu tư và kinh tế. Ông có khả năng đặc biệt trong việc biến những điều phức tạp của thị trường và thế giới trở thành những điều mà một người dân phổ thông cũng có thể hiểu được thông qua các bài viết trên The National Investor. Phương châm của ông Chris Temple: “Thông tin có ở bất cứ đâu. Nhưng tại đây, bạn sẽ nhận được kiến thức”. 

(ntdvn.com; Lê Minh - Theo The Epoch Times)