Một quân nhân Ukraine phóng máy bay không người lái chiến đấu ở vùng Zaporizhzhia, Ukraine, tháng Tư năm 2025. Ảnh: Stringer / Reuters

 

 

Nguồn: Michael C. Horowitz, Lauren A. Kahn, và Joshua A. Schwartz, “What Drones Can—and Cannot—Do on the Battlefield”, Foreign Affairs, 04/07/2025

 

Biên dịch: Viên Đăng Huy (nghiencuuquocte.org)

 

Phụ đính: Dân Việt Newspaper

 

 

 

Trong vòng hai tuần của tháng Sáu, lực lượng võ trang Ukraine và Israel đã thực hiện hai trong số những chiến dịch táo bạo nhất trong lịch sử quân sự gần đây. Vào ngày 1 tháng Sáu, Ukraine đã ử dụng hàng trăm máy bay không người lái (drone) được đưa sâu vào lãnh thổ Nga để gây hư hại đáng kể hoặc phá hủy ít nhất 11 oanh tạc cơ chiến lược của Nga trong khuôn khổ Chiến dịch Mạng Nhện (Operation Spider’s Web). Sau đó, bắt đầu từ ngày 13 tháng Sáu, trong Chiến dịch Sư Tử Trỗi Dậy (Operation Rising Lion), Israel đã xử dụng drone được buôn lậu từng bộ phận vào Iran để phá hủy hệ thống phòng không của Iran, giúp Israel giành quyền kiểm soát hoàn toàn không phận Iran. Trong mỗi trường hợp, những chiếc drone có giá không quá vài nghìn USD mỗi chiếc đã có thể xóa sổ hàng chục hoặc thậm chí hàng trăm triệu USD giá trị của các hệ thống võ khí tiên tiến không thể dễ dàng thay thế.

 

Hai thành công chiến thuật đáng kinh ngạc này báo trước một sự thay đổi rộng lớn hơn trong cách tiến hành chiến tranh. Cả Ukraine và Israel vẫn tiếp tục dựa vào các hệ thống võ khí truyền thống, đắt tiền, và đặc biệt là thành công của Israel ở Iran đòi hỏi phải xử dụng rộng rãi các tiêm kích cơ có người lái. Nhưng đối với các quân đội hiện đại, các hệ thống võ khí không người lái — ngày càng được hỗ trợ bởi trí tuệ nhân tạo — đang trở nên quan trọng để đạt được thành công trên chiến trường. Điều này không có gì ngạc nhiên: theo các viên chức Ukraine, drone tấn công một chiều hiện chịu trách nhiệm cho 70% số thương vong tiền tuyến trong cuộc chiến giữa Nga và Ukraine. Năm 2024, Eric Schmidt, Chủ tịch Ủy ban An ninh Quốc gia Mỹ về Trí tuệ Nhân tạo và cựu giám đốc điều hành của Google, lập luận rằng sự gia tăng của drone giá rẻ đã khiến các công nghệ cũ như xe tăng trở nên “vô dụng”, và khuyên Mỹ nên “bỏ chúng đi” và mua drone thay thế. Trong các bài đăng trên mạng xã hội X vào năm 2024, Elon Musk cho rằng “những kẻ ngốc vẫn đang chế tạo tiêm kích cơ có người lái như F-35” và nói rằng “các cuộc chiến tranh trong tương lai đều là về drone”.

 

 


Mặc dù có sự đồng thuận ngày càng tăng này, Bộ Quốc phòng Mỹ vẫn dành phần lớn ngân sách của mình cho các hệ thống võ khí cũ đắt tiền. Chiến dịch Búa Đêm — cuộc tấn công của Mỹ vào các địa điểm hạch tâm của Iran vào ngày 22 tháng Sáu liên quan đến hơn 125 phi cơ của Mỹ, bao gồm 7 oanh tạc cơ B-2 — cho thấy các hệ thống võ khí đắt tiền, có phi công vẫn có vai trò quan trọng trên chiến trường. Nhưng khi chiến tranh hiện đại phát triển, quân đội mạnh nhất thế giới cũng phải thay đổi. Ngũ Giác Đài chi hàng chục tỷ USD hàng năm để bảo trì và nâng cấp các hàng không mẫu hạm, tiêm kích cơ F-35, và xe tăng. Nhưng họ chỉ đầu tư 500 triệu USD vào drone chi phí thấp thông qua vòng đầu tiên của Sáng kiến ​​Replicator nổi bật vào năm 2023. Mặc dù Sáng kiến Replicator là một bước khởi đầu tốt, nhưng khoản đầu tư của Mỹ vào các loại drone giá rẻ cần thiết cho một cuộc chiến tranh hiện đại, cường độ cao vẫn còn quá ít, ít nhất là thua kém một bậc so với nhu cầu thực tế.

 

Chuyển đổi sang mô hình lực lượng kết hợp “phẩm chất – số lượng” – tức là xử dụng một lượng lớn các thiết bị giá rẻ đi đôi với số ít các khí tài và võ khí đắt tiền – sẽ không hề dễ dàng. Sau nhiều thập niên tập trung gần như độc quyền vào việc xây dựng một quân đội gồm một số lượng nhỏ các hệ thống tiên tiến, Mỹ phải bù đắp thời gian đã mất và đầu tư, phát triển năng lực khai triển số lượng lớn các loại võ khí tự động-không-người-lái giá rẻ nhưng tấn công chính xác, hay còn gọi là “hệ thống võ khí tự động không-người-lái tấn công theo bầy đàn và chính xác” -  “precise mass”. Họ cũng phải tích hợp thế hệ võ khí tự động không-người-lái tân tiến này với các hệ thống cũ hiện có để có thể hoạt động hiệu quả hơn theo những cách sáng tạo. Nếu Ngũ Giác Đài không điều chỉnh theo thực tế mới của chiến tranh, họ sẽ mất sức răn đe đối với hành động gây hấn của đối thủ trước khi nó xảy ra — và có lẽ là tiềm năng giành chiến thắng trong các cuộc chiến.

 

 

Thích ứng hoặc chết

Các chiến dịch của Ukraine và Israel cho thấy các cuộc tấn công bằng võ khí tự động không-người-lái có thể có hiệu quả tàn khốc, ngay cả đối với các đối thủ tinh vi. Trong Chiến dịch Mạng Nhện, Ukraine đã xử dụng một số công nghệ mới nổi. Một là hệ thống lái tự động mã nguồn mở cho phép drone của họ khai triển tính năng tự hành khi tín hiệu giữa phi công và drone bị gây nhiễu hoặc yếu. Một cái khác là hệ thống nhắm mục tiêu được hỗ trợ bởi AI được huấn luyện để xác định oanh tạc cơ của Nga dựa trên các bản quét ba chiều của phi cơ Nga và Liên Xô được lưu giữ trong các bộ sưu tập bảo tàng hàng không Ukraine. Thành công của Chiến dịch Mạng Nhện — và năng lực của Ukraine trong việc tuồn lậu hơn một trăm drone vào hơn 2.000 dặm lãnh thổ Nga để chuẩn bị cho chiến dịch này — củng cố một xu hướng rõ ràng ngay từ đầu cuộc xung đột: các khí tài quân sự đắt tiền dễ bị tấn công hơn bao giờ hết bởi võ khí tự động không-người-lái, đặc biệt là khi chúng được khai triển ngoài trời ở phi trường hoặc bến cảng.

 

Chiến dịch Sư Tử Trỗi Dậy của Israel chứng tỏ tính dễ bị tổn thương của các hệ thống đắt tiền khác, chẳng hạn như hệ thống phòng không, trước các hệ thống võ khí tự động không-người-lái giá rẻ, bất kể chúng ở sâu trong lãnh thổ của một quốc gia đến đâu. Rất lâu trước khi cuộc tấn công giữa tháng Sáu bắt đầu, các đặc vụ Israel đã tuồn lậu các bộ phận drone vào Iran, sau đó ráp lại để tấn công các hệ thống phòng không của Iran một cách nhanh chóng và không bị phát hiện.

 

Bằng cách xử dụng các hệ thống võ khí không người lái giá rẻ để thực hiện các cuộc phản công của mình, Ukraine và Israel cũng đã gây ra tổn thất rất lớn cho đối thủ của họ. Mặc dù mức độ đầy đủ của tổn thất của Nga từ Chiến dịch Mạng Nhện vẫn chưa rõ ràng, nhưng Ukraine tuyên bố đã phá hủy hơn 40 phi cơ. 11 oanh tạc cơ Nga mà hình ảnh vệ tinh thương mại đã xác minh bị phá hủy hoặc hư hại nặng nề đã có giá trị gấp hàng trăm lần so với các drone được xử dụng trong cuộc tấn công. Ngay cả khi Nga chỉ mất một chiếc thuộc mỗi loại tiêm kích cơ tiên tiến mà Ukraine tuyên bố đã phá hủy, họ sẽ phải chịu tổn thất nặng nề. Ví dụ, một chiếc phi cơ cảnh báo sớm và kiểm soát trên không của Nga ước tính có giá 330 triệu USD, và một chiếc oanh tạc cơ tầm xa của Nga có giá lên tới 270 triệu USD. Ngược lại, mỗi chiếc drone bốn cánh của Ukraine có giá từ 600 đến 1.000 USD. Điều này có nghĩa là tổng chi phí cho toàn bộ khí tài được Ukraine xử dụng trong chiến dịch Mạng Nhện có lẽ không quá 117.000 USD, một phần rất nhỏ so với chi phí của một quả hỏa tiễn Kh-101 được mang bởi một trong những oanh tạc cơ Nga bị phá hủy, và thậm chí còn thấp hơn giá của một hỏa tiễn chống tăng Javelin 200.000 USD/quả mà Mỹ đã cung cấp cho Ukraine.

 

Mặc dù diễn ra trong các bối cảnh rất khác nhau, Chiến dịch Mạng Nhện và Sư Tử Trỗi Dậy nhấn mạnh một động lực mới nổi trong chiến tranh hiện đại: quân đội quá phụ thuộc vào các hệ thống cũ đắt tiền có thể gặp khó khăn trong các cuộc chiến tranh tiêu hao kéo dài, và nếu các quốc gia giàu có không thích ứng, họ sẽ chỉ có thể đủ sức để mất đi một số lượng hữu hạn các hệ thống này trước khi chi phí trở nên không bền vững về mặt tài chánh hoặc chánh trị.

 

Võ khí tự động không-người-lái không chỉ rẻ hơn các võ khí truyền thống, giúp ngay cả các quân đội thiếu nguồn lực cũng có thể cạnh tranh với các đối thủ mạnh hơn. Chúng cũng có thể được sản xuất nhanh hơn nhiều. Ukraine hiện đang sản xuất hàng triệu drone mỗi năm, trong khi Nga sẽ mất nhiều năm để xây dựng lại lực lượng oanh tạc cơ đã bị suy yếu của mình. Khoảng cách về thời gian thay thế như vậy có thể giúp cân bằng cuộc chơi hoặc thậm chí quyết định kết quả của một cuộc xung đột kéo dài giữa một quốc gia đầu tư quá mức vào các hệ thống võ khí cũ đắt tiền, khó thay thế và một quốc gia có thể nhanh chóng mở rộng quy mô sản xuất các hệ thống võ khí tự động không-người-lái.

 

Ukraine và Israel không phải là những quốc gia duy nhất đang khai thác những lợi thế này. Đối thủ của họ cũng vậy. Moscow đã trả đũa Chiến dịch Mạng Nhện bằng một số cuộc tấn công bằng drone lớn nhất trong cuộc chiến, gần như áp đảo hệ thống phòng không vốn đã quá tải của Kyiv. Iran đã đáp trả các cuộc tấn công ban đầu của Israel bằng cách phóng các đợt drone và hỏa tiễn tương đối rẻ của riêng mình chống lại các mục tiêu của Israel. Mặc dù hệ thống phòng không của Israel đã đánh chặn hầu hết các cuộc tấn công này, nhưng phản ứng của Iran đủ hiệu quả để gây lo ngại từ các viên chức Israel và Mỹ rằng Lực lượng Phòng vệ Israel có thể hết hỏa tiễn đánh chặn. Cuộc phản công cũng buộc Israel phải xử dụng tiêm kích cơ của mình để tiếp tục nhắm mục tiêu vào các địa điểm phóng của Iran trong suốt cuộc chiến kéo dài 12 ngày khiến Israel tiêu tốn hàng trăm triệu USD mỗi ngày.

 

 

Ngay cả khi drone chi phí thấp ngày càng trở nên quan trọng trên chiến trường, các võ khí truyền thống, chẳng hạn như tiềm thủy định tàng hình, tiêm kích cơ và oanh tạc cơ vẫn hữu ích, đặc biệt khi kết hợp với các hệ thống giá rẻ. Ví dụ, Israel đã xử dụng drone tự sát vào ngày 13 tháng Sáu để phá hủy hệ thống phòng không của Iran, mở đường cho các tiêm kích cơ tiên tiến của Israel (và sau đó là của Mỹ) dễ dàng tiến vào không phận Iran, ném bom các cơ sở hạch tâm nhạy cảm nhất và các mục tiêu chiến lược khác mà gần như không gặp phải sự cản trở nào. Đáng chú ý, Iran đã không bắn một hỏa tiễn đất đối không nào vào bất kỳ phi cơ nào của Mỹ, và chánh phủ Israel tuyên bố rằng không có phi cơ có người lái nào của họ bị bắn hạ.

 

Việc Israel xử dụng sớm các hệ thống võ khí không người lái để làm suy yếu hệ thống phòng không của Iran đã giảm thiểu rủi ro về tiền bạc và con người trong trường hợp cuộc tấn công ban đầu thất bại và drone bị bắn hạ. Sau đó, khi bầu trời đã được dọn sạch, Israel đã xử dụng phi cơ có người lái của mình để tấn công các mục tiêu như cơ sở hạch tâm Natanz với độ chính xác và sức tải bom vượt xa sức lực của drone. Nga cũng đã kết hợp các hệ thống giá rẻ như drone Shahed-136 với hỏa tiễn tân tiến để làm kiệt sức, hoặc phá hủy hệ thống phòng không, và sau đó tấn công các mục tiêu giá trị cao.

 

Các hệ thống võ khí tàng hình truyền thống rất đắt tiền và mất nhiều thời gian để sản xuất. Nhưng chúng có thể cực kỳ hiệu quả. Để làm suy giảm thành công các cơ sở làm giàu uranium Fordow và Natanz được chôn sâu, Mỹ không chỉ phải xử dụng 14 quả bom xuyên hầm trọng lượng lớn 13,600 kg mà chỉ có họ mới sở hữu; họ còn phải điều động bảy oanh tạ cơ B-2 tàng hình trị giá 2 tỷ USD, chiếc phi cơ duy nhất trên thế giới được thiết kế để mang và thả những quả bom như vậy. Với tất cả những lợi thế của chúng, drone tấn công một chiều đơn giản là không thể mang hơn 400.000 pound hỏa lực.

 

Đầu tư độc quyền vào các hệ thống võ khí tự động không-người-lái  sẽ hạn chế các mục tiêu mà một quân đội có thể phá hủy. Trên thực tế, quân đội Iran là minh chứng cho những cạm bẫy của việc quá phụ thuộc vào các hệ thống võ khí chi phí thấp như vậy. Tehran có một trong những chương trình drone rộng lớn nhất thế giới, nhưng vì thiếu một lực lượng không quân hiện đại, họ không thể tấn công thành công các mục tiêu quân sự và dân sự được bảo vệ tốt của Israel và buộc Israel phải xem xét lại kế hoạch chiến tranh của mình.

 

 

Phẩm chất và số lượng

Chiến thắng của quân Đồng minh vào Ngày D-Day năm 1944 đòi hỏi sự kết hợp của hỏa lực không quân, hải quân và pháo binh để làm suy yếu hệ thống phòng thủ của Đức Quốc xã và dọn đường cho lực lượng mặt đất chiếm giữ và giữ vững lãnh thổ ở Normandy. Chiến thắng đó đòi hỏi phải nắm vững công nghệ tiên tiến nhất của chiến tranh liên hợp võ khí vào thời điểm đó. Ngày nay, tác chiến với sự kết hợp giữa các hệ thống chi phí thấp và cao cấp là chiến tranh liên hợp võ khí mới.

 

Tổng hợp lại, Chiến dịch Mạng Nhện, Sư Tử Trỗi Dậy và Búa Đêm cho thấy các quân đội có nguồn lực tốt cần đầu tư vào cả hai năng lực để tăng cường sức răn đe của họ. Khi Trung Quốc nhanh chóng hiện đại hóa quân đội của mình trên mọi lĩnh vực, bao gồm cả các hệ thống võ khí tự động không-người-lái, Mỹ đã đầu tư quá ít vào các hệ thống “cấp thấp” có thể dễ dàng mua được với số lượng lớn và cập nhật khi cần thiết. Khoản chi ban đầu 500 triệu USD của Sáng kiến ​​Replicator chỉ chiếm 0,05% ngân sách quốc phòng của Mỹ trong năm tài chánh 2024.

 

Mỹ có thể thoải mái chi gấp mười lần cho các võ khí tự động không-người-lái — bao gồm drone tự sát và các khí tài giám sát — so với số tiền họ đang chi bằng cách tái phân bổ tiền đầu tư ở những nơi khác trong ngân sách khổng lồ của Ngũ Giác Đài. Ngũ Giác Đài cũng có thể dễ dàng hiện thực hóa tầm nhìn về việc phi cơ có người lái và không người lái cùng tác chiến song song và họ cũng có thể mua số lượng lớn các phương tiện hải quân mặt nước không người lái, tự hành, giá cả phải chăng để tăng cường hỏa lực và năng lực giám sát trên biển. Nhưng ngay cả trong kỷ nguyên mới của các loại võ khí tự động không-người-lái này, Ngũ Giác Đài vẫn nên tiếp tục đầu tư vào oanh tạc cơ và tiềm thủy đỉnh tàng hình.

 

Trong lịch sử, các quốc gia không thể thích ứng hiệu quả với những thay đổi trong bản chất của chiến tranh ít có sức răn đe đối thủ của họ hơn và có nhiều nguy cơ bị thua các cuộc chiến tranh trong tương lai. Lực lượng không quân Nhật Bổn đã phá hủy các tuần dương hạm Anh Quốc được cho là bất khả xâm phạm ở Thái Bình Dương ngay từ đầu Thế chiến II. Trong Chiến tranh Trăm năm, Anh Quốc đã xử dụng trường cung để kết thúc kỷ nguyên của hiệp sĩ cưỡi ngựa bằng cách đánh bại Pháp tại Trận Crécy. Nếu Mỹ tiếp tục không đầu tư đủ vào võ khí tự động không-người-lái để bổ túc cho các khoản đầu tư vào võ khí truyền thống của mình, có lẽ họ sẽ không phải đối mặt với một tình thế quá thảm khốc. Nhưng sức răn đe của họ có thể suy yếu dưới tay các đối thủ tin rằng họ có thể làm suy yếu quyết tâm của Mỹ. Tuy nhiên, đồng thời, Washington không nên bỏ qua các khí tài và võ khí tàng hình, cao cấp, là nền tảng của sức mạnh quân sự Mỹ và chỉ theo đuổi những công nghệ mới nhất, hào nhoáng nhất, với hy vọng rằng chúng đại diện cho một viên đạn ma thuật. Chuẩn bị cho tương lai chiến tranh chưa bao giờ có nghĩa là từ bỏ quá khứ. Nhưng nó đòi hỏi sự linh hoạt mà Mỹ vẫn chưa thể hiện.

 

 

MICHAEL C. HOROWITZ hiện là Nghiên cứu viên cao cấp về Công nghệ và Đổi mới tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại. Ông từng là Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ phụ trách Phát triển Lực lượng và Năng lực Mới nổi.

 

LAUREN A. KAHN là Chuyên viên Phân tích Nghiên cứu cấp cao tại Trung tâm An ninh và Công nghệ Mới nổi thuộc Đại học Georgetown.

 

JOSHUA A. SCHWARTZ là Trợ lý Giáo sư về Quan hệ Quốc tế và Công nghệ Mới nổi tại Viện Chiến lược và Công nghệ Carnegie Mellon.