(Ảnh: nghiencuuquocte.org)
Nguồn: Stephen M. Walt, “What the United States Can Learn From China,” Foreign Policy, 20/06/2024
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng (nghiencuuquocte.org)
Trong bối cảnh Trung Quốc đang trỗi dậy, người Mỹ nên tự hỏi Bắc Kinh đang làm gì đúng – và Mỹ đang làm gì sai.
Trong bất kỳ lĩnh vực nào, các đối thủ cạnh tranh cũng không ngừng phấn đấu để làm tốt hơn. Họ tìm kiếm những sáng kiến giúp cải thiện vị thế của mình và nỗ lực bắt chước bất cứ điều gì có hiệu quả với đối thủ. Chúng ta đã chứng kiến hiện tượng này trong thể thao, kinh doanh, và cả chính trị quốc tế. Bắt chước không có nghĩa là phải làm chính xác những gì người khác đã làm, nhưng việc phớt lờ các chính sách mang lại lợi ích cho người khác và từ chối thích nghi chính là cách khiến bạn tiếp tục thua cuộc.
Ngày nay, nhu cầu cạnh tranh hiệu quả hơn với Trung Quốc có lẽ là vấn đề chính sách đối ngoại duy nhất mà gần như tất cả các đảng viên Dân chủ và Cộng hòa đều đồng ý với nhau. Sự đồng thuận đó đang định hình ngân sách quốc phòng của Mỹ, thúc đẩy nỗ lực củng cố các quan hệ đối tác ở Á châu, và khuyến khích một cuộc thương chiến công nghệ cao đang dần được mở rộng. Tuy nhiên, ngoài việc cáo buộc Trung Quốc đánh cắp công nghệ của Mỹ và vi phạm các hiệp định thương mại trước đó, các chuyên gia cảnh báo về Trung Quốc hiếm khi xem xét các biện pháp rộng hơn đã giúp Bắc Kinh đạt được điều này. Nếu Trung Quốc thực sự đang “cướp đi” vị trí của Mỹ, thì không phải người Mỹ nên tự hỏi xem Bắc Kinh đang làm đúng điều gì và Mỹ đang làm sai điều gì hay sao? Liệu cách tiếp cận chính sách đối ngoại của Trung Quốc có mang lại một số bài học hữu ích cho Washington không?
Chắc chắn, phần lớn nguyên nhân sự trỗi dậy của Trung Quốc là do các cải cách nội bộ. Quốc gia đông dân nhất thế giới luôn có tiềm năng sức mạnh to lớn, nhưng tiềm năng đó đã bị kìm hãm suốt hơn một thế kỷ do những chia rẽ nội bộ sâu sắc hoặc các chính sách kinh tế Marxist sai lầm. Một khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc từ bỏ chủ nghĩa Marx (nhưng không từ bỏ chủ nghĩa Lenin) và chấp nhận thị trường, thì việc sức mạnh tương đối của nước này tăng vọt là điều không thể tránh khỏi. Và người ta có thể lập luận rằng: những nỗ lực của chính quyền Biden nhằm phát triển chính sách công nghiệp quốc gia thông qua Đạo luật Giảm phát và các biện pháp khác là một nỗ lực muộn màng nhằm bắt chước những nỗ lực được nhà nước hậu thuẫn ở Trung Quốc để chiếm ưu thế trong một số công nghệ then chốt.
Tuy nhiên, sự trỗi dậy của Trung Quốc không chỉ nhờ vào những cải cách trong nước hay sự tự mãn của phương Tây. Sự trỗi dậy của Trung Quốc còn được tạo điều kiện thuận lợi nhờ cách tiếp cận chính sách đối ngoại trên diện rộng, điều mà các nhà lãnh đạo Mỹ nên cân nhắc.
Đầu tiên và rõ ràng nhất là Trung Quốc đã tránh được những vũng lầy tốn kém mà Mỹ đã sa vào hết lần này đến lần khác. Ngay cả khi sức mạnh của họ đã tăng lên, Bắc Kinh vẫn tỏ ra dè dặt trước các cam kết tốn kém ở nước ngoài. Ví dụ, họ không hứa sẽ tham chiến để bảo vệ Iran, hoặc bảo vệ các đối tác kinh tế khác nhau của mình ở Phi châu, Mỹ Latinh, hoặc Đông Nam Á. Trung Quốc đang cung cấp cho Nga các công nghệ lưỡng dụng có giá trị về mặt quân sự (và được trả công hậu hĩnh), nhưng Bắc Kinh không gửi vũ khí sát thương cho Nga, cũng không tranh luận về việc có nên cử cố vấn quân sự hoặc quân đội của mình sang giúp Nga giành chiến thắng. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Nga Vladimir Putin có thể nói rất nhiều về quan hệ đối tác “không giới hạn” của họ, nhưng Trung Quốc vẫn đang tiếp tục đưa ra những mặc cả cứng rắn trong các thỏa thuận với Nga, đáng chú ý nhất là yêu cầu được mua dầu và khí đốt của Nga với giá hời.
Ngược lại, Mỹ dường như có một bản năng sai lầm khi liên tục lao vào những hố cát lún trong chính sách đối ngoại.
Khi không lật đổ các lãnh tụ độc tài hoặc chi hàng nghìn tỷ đô-la để cố gắng đưa nền dân chủ đến những nơi như Afghanistan, Iraq hay Libya, thì người Mỹ lại liên tục mở rộng các cam kết an ninh mà họ hy vọng sẽ không bao giờ phải thực hiện đối với các quốc gia trên khắp thế giới. Đáng chú ý, các nhà lãnh đạo Mỹ vẫn cho rằng mình đang đạt được một thành tựu chính sách đối ngoại nào đó bất cứ khi nào họ nhận nhiệm vụ bảo vệ một quốc gia khác, ngay cả khi quốc gia đó có giá trị chiến lược hạn chế hoặc không thể làm gì nhiều để thúc đẩy lợi ích của Mỹ.
Mỹ hiện đang chính thức cam kết bảo vệ nhiều quốc gia hơn bất kỳ thời điểm nào trong lịch sử của nước này, và việc cố gắng đáp ứng tất cả những cam kết đó giúp giải thích tại sao ngân sách quốc phòng của Mỹ lại lớn hơn nhiều so với Trung Quốc. Hãy tưởng tượng xem người Mỹ có thể làm gì với khoản chênh lệch hơn nửa nghìn tỷ đô-la mỗi năm giữa ngân sách quốc phòng của Mỹ và của Trung Quốc. Nếu không cố gắng kiểm soát toàn thế giới, có lẽ Mỹ đã có thể xây dựng các cơ sở hạ tầng đường sắt, vận tải đô thị, và sân bay đẳng cấp thế giới – giống như Trung Quốc – trong khi duy trì thâm hụt ngân sách ở mức thấp hơn.
Đây không phải là lập luận ủng hộ việc rời khỏi NATO, cắt đứt mọi cam kết của Mỹ, và rút lui về Pháo đài Mỹ, nhưng nó ngụ ý rằng cần thận trọng hơn trong việc mở rộng các cam kết mới và yêu cầu các đồng minh hiện tại của Mỹ phải gánh vác thêm trách nhiệm. Nếu Trung Quốc có thể phát triển mạnh mẽ và mở rộng tầm ảnh hưởng, mà không cần cam kết bảo vệ hàng chục quốc gia trên thế giới, thì tại sao người Mỹ lại không thể?
Thứ hai, khác với Mỹ, Trung Quốc duy trì quan hệ ngoại giao kiểu kinh doanh với gần như hầu hết các nước. Họ có nhiều cơ quan ngoại giao hơn bất kỳ quốc gia nào khác, các vị trí đại sứ của họ hiếm khi bị bỏ trống, và các viên chức ngoại giao của họ ngày càng trở thành những chuyên gia được đào tạo bài bản (thay vì những nhân vật nghiệp dư với chuyên môn chính là khả năng gây quỹ cho các ứng viên tổng thống thành công). Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận thức rằng quan hệ ngoại giao không phải là phần thưởng cho những nước có hành vi tốt; chúng là một công cụ thiết yếu để thu thập thông tin, truyền đạt quan điểm của Trung Quốc tới các nước khác, và thúc đẩy lợi ích của họ thông qua thuyết phục chứ không phải vũ lực thô bạo.
Ngược lại, Mỹ vẫn có xu hướng từ chối công nhận ngoại giao đối với các quốc gia mà họ có mâu thuẫn, theo đó khiến việc hiểu được lợi ích và động cơ của những nước này, cũng như việc truyền đạt quan điểm của Mỹ, trở nên khó khăn hơn nhiều. Washington từ chối công nhận chính thức các chính phủ Iran, Venezuela, hoặc Triều Tiên, dù việc có thể liên lạc thường xuyên với các chính phủ này sẽ rất hữu ích. Trong khi đó, Trung Quốc sẵn sàng đối thoại với tất cả các quốc gia này và với tất cả các đồng minh thân cận nhất của Mỹ. Liệu người Mỹ có nên bắt chước họ?
Chẳng hạn, Trung Quốc có quan hệ ngoại giao và kinh tế với mọi quốc gia ở Trung Đông, bao gồm cả những quốc gia có liên kết chặt chẽ với Mỹ như Israel hay Ai Cập. Ngược lại, Mỹ chỉ có “quan hệ đặc biệt” với Israel (và, ở một mức độ nào đó, là quan hệ với Ai Cập và Ả Rập Saudi), có nghĩa là Mỹ ủng hộ Israel bất kể họ làm gì. Tuy nhiên, Mỹ không có liên hệ thường xuyên với Iran, Syria, hay với lực lượng Houthi đang kiểm soát phần lớn Yemen. Các đối tác khu vực của Mỹ coi sự ủng hộ của Mỹ là đương nhiên, nhưng lại thường xuyên phớt lờ lời khuyên của Mỹ, bởi vì họ không bao giờ phải lo lắng về việc Mỹ tiếp cận các đối thủ của họ. Trường hợp điển hình: Ả Rập Saudi đang duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Nga và Trung Quốc, và đã sử dụng các mối đe dọa ngầm nhằm đạt được những nhượng bộ ngày càng lớn hơn từ Washington, nhưng các quan chức Mỹ chẳng bao giờ chơi trò chơi cân bằng quyền lực chính trị tương tự để đáp trả. Do sự bất cân xứng này, nên không có gì đáng ngạc nhiên khi chính Bắc Kinh, chứ không phải Washington, mới là bên hòa giải gần đây giữa Ả Rập Saudi và Iran.
Thứ ba, cách tiếp cận chung của Trung Quốc đối với chính sách đối ngoại nhấn mạnh chủ quyền quốc gia: ý tưởng rằng mọi quốc gia nên được tự do tự trị theo các giá trị của riêng mình. Nếu bạn muốn làm ăn với Trung Quốc, bạn sẽ không cần phải lo lắng về việc bị chỉ đạo cách điều hành đất nước của mình, hay việc bị trừng phạt nếu hệ thống chính trị của bạn khác với hệ thống của Bắc Kinh.
Ngược lại, Mỹ tự xem mình là nhân vật chính thúc đẩy một tập hợp các giá trị tự do phổ quát, và tin rằng việc truyền bá dân chủ là một phần trong sứ mệnh toàn cầu của mình. Chỉ trừ một số trường hợp ngoại lệ đáng chú ý, người Mỹ thường sử dụng quyền lực của mình để buộc các quốc gia khác phải làm nhiều hơn để tôn trọng nhân quyền và tiến tới dân chủ, và đôi khi, họ đặt điều kiện chỉ giúp đỡ nếu các quốc gia khác cam kết làm nhiều hơn để tôn trọng nhân quyền và tiến tới dân chủ. Nhưng xét đến việc phần lớn các quốc gia trên thế giới không phải là những nền dân chủ toàn diện, nên cũng dễ hiểu tại sao nhiều quốc gia lại thích cách tiếp cận của Trung Quốc hơn, đặc biệt là khi Trung Quốc mang lại cho họ những lợi ích hữu hình. Như cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ Larry Summers đã kể lại, “Một người từ một nước đang phát triển nói với tôi rằng ‘Những gì chúng tôi nhận được từ Trung Quốc là một sân bay. Những gì chúng tôi nhận được từ Mỹ là một bài giảng.’” Nếu bạn là một kẻ độc tài, hoặc là lãnh đạo của một nền dân chủ không hoàn hảo, bạn sẽ thấy cách tiếp cận nào hấp dẫn hơn?
Tệ hại hơn nữa là thói lên mặt đạo đức của Mỹ, khiến nước này dễ bị buộc tội đạo đức giả bất cứ khi nào họ không đáp ứng được các tiêu chuẩn của chính mình. Tất nhiên, không cường quốc nào có thể sống đúng với tất cả những lý tưởng mà họ tuyên bố, nhưng nếu một quốc gia tuyên bố mình là đạo đức độc nhất vô nhị, thì hình phạt khi họ không đạt được mục tiêu là rất lớn. Không ở đâu vấn đề này lại rõ ràng hơn ở phản ứng thiếu nhất quán và thiếu mạch lạc về mặt chiến lược của chính quyền Biden đối với cuộc chiến ở Gaza. Thay vì lên án tội ác của cả hai bên và sử dụng toàn bộ đòn bẩy của Mỹ để chấm dứt giao tranh, Mỹ lại cung cấp phương tiện để Israel tiến hành một chiến dịch hủy diệt đầy thù hận, đồng thời bảo vệ Israel tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và bác bỏ những cáo buộc diệt chủng hợp lý, bất chấp việc có bằng chứng dồi dào, cũng như những đánh giá gay gắt của cả Tòa án Công lý Quốc tế và công tố viên trưởng của Tòa án Hình sự Quốc tế. Cùng lúc đó, Mỹ vẫn khăng khăng về tầm quan trọng của việc duy trì “trật tự dựa trên luật lệ.” Không có gì ngạc nhiên khi những sự kiện này đã hủy hoại nghiêm trọng hình ảnh của Mỹ ở Trung Đông và phần lớn các nước phương Nam, hoặc rằng Trung Quốc đang được hưởng lợi từ chúng. Đáng chú ý hơn, các quan chức Mỹ vẫn chưa đưa ra một tuyên bố rõ ràng nào để giải thích: làm thế nào mà phản ứng của Mỹ đối với thảm kịch này lại khiến người dân Mỹ an toàn hơn, thịnh vượng hơn, hoặc được ngưỡng mộ hơn trên toàn thế giới.
Tóm lại, Trung Quốc đã vươn lên trở thành đối thủ chính của Mỹ một phần bằng cách huy động sức mạnh tiềm ẩn của mình một cách hiệu quả hơn, nhưng cũng bằng cách hạn chế các cam kết ở nước ngoài, và tránh những tổn thương tự gây ra mà các đời chính quyền Mỹ liên tiếp đang phải gánh chịu. Điều đó không có nghĩa là thành tích của Trung Quốc là hoàn hảo – họ còn lâu mới đạt được điều đó. Tập Cận Bình đã mắc sai lầm khi công khai từ bỏ chính sách trỗi dậy hòa bình, và chính sách ngoại giao “chiến lang” dân tộc chủ nghĩa của ông đã khiến các quốc gia trước đây từng hoan nghênh một quan hệ chặt chẽ hơn với Bắc Kinh nay lại xa lánh nước này. Sáng kiến Một Vành Đai, Một Con Đường được tung hô hết mình lại thành tích tốt xấu lẫn lộn, vừa tạo thiện chí vừa gây phẫn nộ, và đã dẫn đến các khoản nợ khổng lồ mà Bắc Kinh khó có thể thu hồi được. Việc ngầm ủng hộ Nga ở Ukraine cũng làm hoen ố hình ảnh của Trung Quốc ở Âu châu và khuyến khích các chính phủ ở lục địa già rút lui khỏi việc hội nhập kinh tế chặt chẽ hơn. Và không phải lúc nào Trung Quốc cũng tuân theo cam kết của họ đối với nguyên tắc chủ quyền quốc gia.
Nhưng những người Mỹ đang lo lắng sâu sắc về sự trỗi dậy của Trung Quốc nên suy ngẫm về những gì Bắc Kinh đã làm tốt và những gì Washington đã làm kém. Thật khó để bỏ qua điều trớ trêu: Trung Quốc đã trỗi dậy nhanh chóng một phần nhờ bắt chước sự trỗi dậy trước đó của Mỹ lên đỉnh cao quyền lực thế giới. Nước Mỹ non trẻ có nhiều lợi thế bẩm sinh, bao gồm một lục địa màu mỡ, dân số bản địa thưa thớt và bị chia rẽ, cũng như được bảo vệ bởi hai đại dương rộng lớn, và nước này đã tận dụng những lợi thế đó bằng cách tránh xa rắc rối ở nước ngoài và xây dựng sức mạnh nội tại. Từ năm 1812 đến năm 1918, Mỹ chỉ tham gia hai cuộc chiến với nước ngoài, và các đối thủ của họ trong các cuộc chiến đó – Mexico năm 1846 và Tây Ban Nha năm 1898 – đều là những nước yếu không có đồng minh đáng kể. Và một khi đã trở thành cường quốc, Mỹ lại để các cường quốc khác tự cân bằng lẫn nhau, đứng ngoài xung đột của họ càng lâu càng tốt, chịu ít thiệt hại nhất trong cả hai cuộc thế chiến, và sau cùng “giành được hòa bình.” Trung Quốc đã đi theo con đường tương tự kể từ năm 1980 và cho đến nay đã đạt được thành quả xứng đáng.
Thủ tướng Đức Otto von Bismarck từng nhận xét: “Chỉ có kẻ ngốc mới học từ những sai lầm của chính mình. Người khôn ngoan học hỏi từ sai lầm của kẻ khác.” Nhận xét của ông có thể được điều chỉnh một chút: Một đất nước khôn ngoan học hỏi không chỉ từ sai lầm của nước khác, mà còn từ những gì nước khác đã làm đúng. Mỹ không nên tìm cách trở nên giống Trung Quốc (dù cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump rõ ràng ghen tị với hệ thống độc đảng của nước này), nhưng người Mỹ vẫn có thể học được đôi điều từ cách tiếp cận thực dụng và tư lợi của Bắc Kinh đối với phần còn lại của thế giới.
Stephen M. Walt là chuyên gia bình luận của Foreign Policy và là giáo sư về quan hệ quốc tế tại Đại học Harvard.
(nghiencuuquocte.org)