Ba trong bốn nền kinh tế lớn nhất thế giới, gồm Hoa Kỳ, Nhật Bản và Liên minh châu Âu đang lên kế hoạch để đưa các nhà máy của họ rời khỏi Trung Quốc, đặc biệt là một số ngành sản xuất quan trọng như thuốc men và thiết bị y tế. Sự phụ thuộc quá lớn vào Trung Quốc đã khiến nhiều quốc gia trở tay không kịp trong dịch bệnh. Đây chỉ là khởi đầu của chuỗi các phản ứng dữ dội trên toàn thế giới đối với Trung Quốc sau khi chứng kiến những hành vi và lời nói của nước này trong đại dịch.

 

Công nhân trong dây chuyền lắp ráp quạt điện của AIRMATE Co., Ltd. – công ty xuất khẩu các sản phẩm điện sang Mỹ. Hình ảnh tại tỉnh Giang Tây, phía đông Trung Quốc, ngày 30/3/2018. (Ảnh: Shutterstock)

 

Trong hai tuần gần đây, những nhân vật quyền lực của ba trong bốn nền kinh tế lớn nhất thế giới đã công bố hoặc thảo luận các kế hoạch để rút các doanh nghiệp của họ rời Trung Quốc sau khi chứng kiến chuỗi cung ứng toàn cầu bị ảnh hưởng nghiêm trọng do hàng loạt nhà máy tại Trung Quốc đóng cửa do dịch bệnh. 

 

Hôm 21/4, Cao uỷ thương mại Liên minh châu Âu Phil Hogan cho biết khối này sẽ tìm cách “giảm bớt sự phụ thuộc thương mại” sau đại dịch, Politico đưa tin.

 

Tuần trước, Nhật Bản đã đưa ra gói hỗ trợ 2,2 tỷ USD để khuyến khích các nhà sản xuất Nhật Bản quay về nước hoặc chuyển sang khu vực Đông Nam Á, miễn là ra khỏi Trung Quốc. Động thái này diễn ra sau khi giám đốc Hội đồng Kinh tế Quốc gia Hoa Kỳ, Larry Kudlow, nói rằng Washington nên chi trả cho các doanh nghiệp Mỹ để đưa sản xuất trở về nước từ Trung Quốc.

 

Trả lời kênh Fox News trước đó vào hồi tháng Một, ông Kudlow đã bình luận rằng dịch virus corona sẽ có lợi cho việc làm của người Mỹ. Tuy nhiên, Hoa Kỳ hiện chưa có chương trình hồi hương doanh nghiệp chính thức.

 

Xu hướng dịch chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc sau đại dịch

Các doanh nghiệp của Mỹ, Nhật và châu Âu đã rời các nhà máy sản xuất khỏi Trung Quốc trong một khoảng thời gian trước đây do chi phí gia tăng và ảnh hưởng của chiến tranh thương mại Mỹ – Trung, nhưng sức ép từ đại dịch đang đẩy nhanh quá trình này khi cho thấy sự phụ thuộc thái quá của thế giới đối với hàng hóa sản xuất tại Trung Quốc, đặc biệt là các sản phẩm y tế quan trọng.

 

Michael Alkire, chủ tịch hãng cung cấp các thiết bị chăm sóc y tế Premier, đã xác định 22 mặt hàng quần áo bảo hộ và 30 loại thuốc “quan trọng đến mức chúng cần được sản xuất tại Mỹ.”

 

Nhiều loại hiện được sản xuất tại Trung Quốc, nơi chi phối thị trường dược phẩm và đồ bảo hộ cá nhân (PPE) của thế giới, cũng như nhiều lĩnh vực sản xuất khác.

 

“Đối với khẩu trang N95, chi phí để sản xuất ở nước ngoài trước đại dịch là 30 xu Mỹ so với 34-36 xu sản xuất trong nước,” ông Alkire cho biết, nói thêm rằng sẽ có sự dịch chuyển các chuỗi cung ứng một cách nghiêm túc sau khi nước Mỹ chứng kiến những gì xảy ra ở New York.

 

Li Xunlei, trưởng ban kinh tế tại công ty chứng khoán Zhongtai và là cố vấn của chính phủ Trung Quốc, cho biết luận điệu nói trên của các nước không mang lại mối đe dọa ngay lập tức đối với Trung Quốc, nhưng nó có thể là một thách thức dài hạn nghiêm trọng.

 

“Sự gián đoạn gây ra bởi virus đã buộc các công ty nước ngoài tìm kiếm các nhà cung cấp trong nước, và việc thiếu hụt PPE cũng làm các nước phát triển hối tiếc vì đã chuyển sản xuất ra nước ngoài,” ông Li nói thêm.

 

Đại dịch khởi phát tại Trung Quốc, nơi đầu tiên hứng chịu các tác động kinh tế và con người. Tuy vậy, trong khi Trung Quốc đang dần hồi phục, nước này đã bán hàng tỷ khẩu trang và các loại PPE khác tới các quốc gia đang thiếu hụt, mặc dù có một số tranh cãi về kiểm soát chất lượng.

 

70% khẩu trang sử dụng tại Mỹ được sản xuất tại Trung Quốc, cũng như một phần đáng kể các loại thuốc men.

 

Mong muốn giảm phụ thuộc đối với thuốc men và vật tư y tế cũng đưa đến những quan ngại rộng hơn về sức mạnh kinh tế, ngoại giao và quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc. Một loạt các dự luật đã được đưa ra tại quốc hội Mỹ để kiềm chế ảnh hưởng này.

 

Tháng trước, Thượng nghị sĩ Cộng hòa bang Florida Marco Rubio đã đề xuất một dự luật yêu cầu Hoa Kỳ giảm sự phụ thuộc chuỗi cung ứng vào Trung Quốc. Đề xuất này đã nhận được sự ủng hộ của ba thượng nghị sĩ đảng Dân chủ. Lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc là một vấn đề hiếm hoi mà lưỡng đảng đồng thuận tại Washington trong những ngày này.

 

“Khi chúng ta phục hồi từ cuộc khủng hoảng chưa từng có này, chúng ta phải thực hiện các bước để giải quyết lỗ hổng hệ thống và rủi ro chuỗi cung ứng mà đại dịch virus corona đã làm lộ ra,” ông Rubio nói trong một bài phát biểu. “Thật không may là phải nhờ một đại dịch toàn cầu để thấy rõ những hậu họa của việc chuyển các cơ sở sản xuất của chúng ta sang các quốc gia như Trung Quốc.”

 

Một dự luật khác được giới thiệu tháng trước bởi Thượng nghị sĩ Cộng hòa bang Arkansas Tom Cotton sẽ cấm hỗ trợ liên bang cho các dược phẩm hoặc các nguyên liệu của Trung Quốc, đồng thời thực thi nghiêm ngặt việc ghi nhãn xuất xứ.

 

Theo các nhà phân tích thương mại, việc Tổng thống Trump áp dụng Đạo luật Sản xuất Quốc phòng gần đây, theo đó buộc các công ty Mỹ sản xuất các sản phẩm y tế khẩn cấp đang thiếu hụt, có thể thúc đẩy sự gia tăng dài hạn trong việc sản xuất một số mặt hàng.

 

Xu hướng này dự kiến sẽ có thêm động lực khi sự giận dữ của công chúng đối với việc xử lý virus của Trung Quốc tăng lên. Trong một cuộc khảo sát tháng trước bởi công ty tư vấn và phân tích Hoa Kỳ Gallup, quan điểm ủng hộ Trung Quốc của người Mỹ đã giảm xuống thấp nhất trong 20 năm qua, chỉ với 33%. Kết quả này được lặp lại trong cuộc khảo sát tuần trước bởi Trung tâm Nghiên cứu Pew, một tổ chức thăm dò dư luận Mỹ.

 

Các nguồn tin cho biết một số nhân viên y tế tại các bệnh viện Mỹ đã rất tức giận khi được đưa cho đồ bảo hộ (PPE) do Trung Quốc sản xuất. Làn sóng chống Trung Quốc này sẽ làm tăng áp lực lên các ngành khác, đặc biệt là hàng tiêu dùng, để dừng việc sản xuất tại Trung Quốc.

 

Theo Chỉ số Reshoring 2019 công bố đầu tháng này bởi công ty tư vấn Kearney của Mỹ, đại dịch đang buộc các công ty suy nghĩ lại về chuỗi cung ứng. Xu hướng đã diễn ra trước và trong cuộc chiến thương mại.

 

“Những bài học từ COVID-19 rất quan trọng bởi chúng quá khắc nghiệt,” Kearney cho biết trong bản báo cáo của họ. “Ít nhất, chúng tôi hy vọng [các công ty] sẽ ngày càng có khuynh hướng phân tán rủi ro thay vì đặt tất cả trứng vào trong một giỏ có chi phí thấp nhất, như nhiều công ty đã làm tại Trung Quốc.”

 

Năm 2019, nhập khẩu hàng hóa được sản xuất tại 14 quốc gia châu Á của Hoa Kỳ đã giảm xuống còn 757 tỷ USD từ mức 816 tỷ USD năm 2018. Sự sụt giảm này phần lớn do việc giảm 17% nhập khẩu từ Trung Quốc thúc đẩy bởi cuộc chiến thương mại, Kearney cho biết. 

 

Tuy vậy, nghiên cứu cho biết điều này không có nghĩa là các công ty đều đã quay lại Mỹ. Thay vào đó, Mỹ đã chứng kiến sự dịch chuyển lớn trong việc tìm nguồn cung từ Mexico và các quốc gia châu Á ngoài Trung Quốc.

 

Những phân vân

Đối với chuỗi cung ứng y tế, gần như chắc chắn sẽ có các chương trình hỗ trợ của chính phủ để hồi hương việc sản xuất các sản phẩm thiết yếu. Không ai muốn trong tình thế bị động lần thứ hai, và những chính sách này nhận được sự ủng hộ rộng rãi khắp thế giới.

 

Tuy nhiên, đối với các loại hàng hóa khác, nhiều doanh nhân không tán đồng việc kết nối động cơ chính trị với thực tiễn kinh tế, đặc biệt vào những thời điểm căng thẳng.

 

Một cuộc khảo sát của phòng thương mại Hoa Kỳ (AmCham) tại Thượng Hải tháng này cho thấy 70% số người được hỏi không nghĩ đến việc chuyển các chuỗi cung ứng của họ ra khỏi Trung Quốc chỉ vì virus.

 

Nhiều người trong số họ vẫn muốn ở lại Trung Quốc để tiếp tục kinh doanh tại thị trường nội địa với 1,4 tỷ dân. Nhiều người đã thiết lập các nhà máy ở nơi khác để xuất khẩu, nhưng sẽ vẫn duy trì cơ sở tại Trung Quốc cho việc kinh doanh nội địa.

 

Ông Ker Gibbs, chủ tịch AmCham Thượng Hải nói rằng đã biết về đề xuất của Larry Kudlow, nhưng việc chuyển một công ty từ Trung Quốc về Mỹ không đơn giản, “nó là một quá trình phức tạp với nhiều yếu tố khác.”

 

Heiwai Tang, giáo sư kinh tế của Đại học Hồng Kông cho biết các gói hỗ trợ của Nhật Bản và được đề xuất bởi Kudlow là cho “các chi phí cố định của việc di dời”, có thể lôi kéo “các công ty tại Trung Quốc đang hoạt động ở biên lợi nhuận, nhưng chúng không giải quyết được các chi phí biến đổi trên thực tế”, như lao động và đất đai – những chi phí có khuynh hướng đắt đỏ hơn tại các quốc gia phát triển.

 

Giám đốc điều hành của một công ty sản xuất thiết bị quang học có trụ sở  tại Tokyo nói với điều kiện ẩn danh, cho biết các chi phí đang tăng lên tại Trung Quốc cũng khiến họ suy nghĩ về việc duy trì cơ sở sản xuất tại nước này, nhưng họ vẫn chưa xem xét một cách nghiêm túc việc chuyển đi.

 

Trong số các nước đã nghiêm túc thực hiện việc đưa sản xuất từ nước ngoài về nước, Đài Loan là một thành công điển hình. Tính đến ngày 16/4, Đài Bắc đã hỗ trợ cho 180 công ty Đài Loan để đưa sản xuất từ Trung Quốc trở về nước kể từ đầu năm ngoái, theo số liệu chính thức.

 

Các công ty này đã bị ảnh hưởng bởi thương chiến Mỹ – Trung ở một mức độ nào đó và đã đầu tư vào Trung Quốc trong hơn hai năm trước khi chuyển lại về nước. Họ nhận được sự giúp đỡ của chính phủ Đài Loan về bảo đảm đất đai, nước, điện, lao động và tài chính, cũng như giảm thuế.

 

Nhưng trong thời điểm hiện tại, Hoa Kỳ vẫn còn một chặng đường dài để hình thành một chương trình ưu đãi mạch lạc, bởi ưu tiên trọng tâm trong thời gian này vẫn là ứng phó với đại dịch.

 (theo SCMP)