Hội nghị thượng đỉnh Quad rõ ràng đã gửi đi một thông điệp rằng, họ không thể cho phép một Trung Quốc bành trướng - có quyền phủ quyết đối với các chính sách đối ngoại của các nước dân chủ. (Ảnh: Tổng hợp - Getty)

 

 

 

 

 

 

Sáng kiến thành lập ‘Bộ tứ kim cương’ ban đầu đã khiến Bắc Kinh hết sức coi thường, họ không ngại dùng ngôn từ nhạo báng Bộ tứ này. Nhưng thời gian đã kiến Bắc Kinh thay đổi, có vẻ như sức mạnh của Bộ tứ này đang trở thành mối đe dọa lớn với tham vọng của Bắc Kinh.

 

 

 

Khi cựu Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe mời các quan chức từ Australia, Ấn Độ và Mỹ gặp mặt tại Manila vào tháng 11/2017, các nhà lãnh đạo Trung Quốc không thấy có lý do gì để lo lắng. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị chế giễu “Bộ tứ” (Quad) này, như cách nhóm đã được biết đến, chỉ là “một ý tưởng gây chú ý”. “Chúng giống như bọt biển ở Thái Bình Dương hoặc Ấn Độ Dương: chúng nhận được một số sự chú ý nhưng sẽ sớm tan biến”.

 

 

 

Bắc Kinh có lý do để bác bỏ và coi thường sức mạnh của bộ tứ kim cương. Các nhà chiến lược Trung Quốc đánh giá lợi ích của các thành viên Bộ tứ kim cương là quá khác nhau để tạo ra sự thống nhất thực sự. Dù sao, Bộ tứ kim cương đã được thử nghiệm hơn một thập kỷ trước đó, và nhóm này không tạo ra được mối đe dọa nào đáng kể với Bắc Kinh.

 

 

Tuy nhiên, trong vòng một vài năm kể từ cuộc họp tháng 11/2017 của Bộ tứ kim cương, Bắc Kinh đã bắt đầu suy nghĩ lại về nhận thức ban đầu của mình. Đến tháng 3 năm nay, khi Bộ tứ tổ chức hội nghị thượng đỉnh cấp lãnh đạo đầu tiên và ban hành thông cáo cấp lãnh đạo đầu tiên, các quan chức Trung Quốc đã bắt đầu thay đổi nhận thức của họ về sức mạnh của Bộ tứ. Bắc Kinh bộc lộ mối quan tâm gia tăng theo từng ngày Bộ tứ. Bắc Kinh kết luận rằng Bộ tứ đại diện cho một trong những thách thức hậu quả nhất đối với tham vọng của Trung Quốc trong những năm tới.

 

 

 

Khi “cạnh tranh chiến lược” với Trung Quốc đã trở thành điểm đồng thuận hiếm hoi của lưỡng đảng ở Washington, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đưa ra cảnh báo rằng đất nước của ông phải đối mặt với một “cuộc đấu tranh vì tương lai của trật tự quốc tế” với một Hoa Kỳ quyết tâm ngăn cản sự trỗi dậy của Trung Quốc. Ông Tập tin rằng có thể đưa Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế, công nghệ và thậm chí có tiềm năng về quân sự từ nay đến năm 2035. Động thái này của Bắc Kinh thuyết phục các quốc gia ở châu Á và trên thế giới rằng sự thống trị của Trung Quốc là không thể tránh khỏi và do đó, họ không có lựa chọn nào khác ngoài việc bắt đầu lùi bước trước các yêu cầu của Trung Quốc. Điều đó sẽ cho phép Trung Quốc bắt đầu viết lại các quy tắc của trật tự quốc tế - và nắm giữ vị trí lãnh đạo toàn cầu của mình - mà không cần phải nổ súng.

 

 

Nhưng trước một Bắc Kinh đầy độc tố với lịch sử (quá khứ và hiện tại) đẫm máu người Trung Quốc, có dân tộc nào cam tâm cúi đầu khuất phục? Có thể 10 năm trước, bộ tứ thất bại vì nhận thức của mỗi quốc gia trước sự nguy hiểm của Trung Quốc chưa cao. Nhưng nhận thức luôn thay đổi. Và khi thay đổi, cách thức mà bộ tứ đoàn kết với nhau, kết cấu, liên minh chặt chẽ với nhau là tất yếu. 

 

 

Bộ tứ là hy vọng duy nhất để bảo vệ toàn bộ Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương khỏi sức tàn phá vô thiên vô pháp từ Trung Quốc.

 

 

 

Đối với ông Tập, câu hỏi quan trọng là liệu Bộ tứ sẽ phát triển đủ lớn, chặt chẽ và toàn diện đến mức người Châu Á tin rằng bộ tứ sẽ chống lại được Trung Quốc. Nếu vậy, thì Châu Á có còn sợ và ngoan ngoãn nghe lời Trung Quốc nếu bên cạnh họ có Bộ tứ kim cương mà họ tin tưởng?

 

 

 

Không thể không đoàn kết chống Trung Quốc.

 

Bộ tứ kim cương được cựu thủ tướng Nhật Bản Abe hình thành sau thảm họa sóng thần năm 2004. Nhật Bản muốn cùng Mỹ, Úc và Ấn độ hợp tác với nhau để ứng phó với thảm họa, và sau đó là cùng nhau chống đỡ lại các thách thức an ninh trong khu vực. Tại thời điểm này, tất cả các quốc gia tham gia trong Bộ tứ với thái độ ‘tạm thời’. 

 

 

Thêm vào đó, tổng thống Mỹ thời điểm đó là George W. Bush, người vốn luôn không muốn mất lòng Bắc Kinh. Ông Bush thậm chí còn lo ngại rằng sự hợp tác của Mỹ trong Bộ tứ kim cương sẽ khiến Trung Quốc xa lánh Mỹ một cách vô ích khi nước Mỹ cần Bắc Kinh trong ‘cuộc chiến khủng bố’. 

 

 

Vậy đã rõ, chính Mỹ, chứ không phải ai khác, lựa chọn tin tưởng và dựa dẫm vào Trung Quốc, tin rằng Trung Quốc giúp họ ngăn cản khủng bố chứ không phải là quốc gia đang nuôi dưỡng, đào tạo khủng bố và kiếm bộn tiền nhờ buôn bán vũ khí với khủng bố. Vài năm sau đó, các bức điện tiết lộ bởi Wikileaks chỉ ra rằng chính quyền của ông Bush đã đảm bảo riêng với các chính phủ còn lại trong Bộ tứ về việc Bộ tứ kim cương sẽ không bao giờ gặp nhau. 

 

 

Thời đó, không chỉ thái độ của Mỹ dung túng và e ngại Trung Quốc. Tại New Delhi, Thủ tướng Manmohan Singh liên tục loại trừ mọi hợp tác an ninh thực sự với Bộ tứ và coi mối quan hệ với Bắc Kinh là “sự cần thiết bắt buộc” của ông.

 

 

Tại Canberra, chính phủ bảo thủ của John Howard lo lắng về việc phá hoại các mối quan hệ có lợi về kinh tế với Trung Quốc và cũng phản đối việc mở rộng hợp tác ba bên hiện có với Hoa Kỳ và Nhật Bản bằng cách thêm Ấn Độ. Vào tháng 7/2007, Australia chính thức rút lui và công bố quyết định tại Bắc Kinh ngay sau đó.

 

 

Ở Nhật Bản, thủ tướng Abe khi đó, là động lực và linh hồn của Bộ tứ, bất ngờ từ chức vào tháng 9/2007 (trở thành Thủ tướng một lần nữa vào năm 2012), người kế nhiệm Yasuo Fukuda, chính thức ném Bộ tứ vào thùng rác lịch sử.

 

 

Khi ông Abe tái dựng lại Bộ tứ kim cương sau một thập kỷ, hoàn cảnh chiến lược đã thay đổi đáng kể.

 

 

Sau nhiều năm, căng thẳng Mỹ-Trung gia tăng. Nhà lãnh đạo của Bắc Kinh không ngừng phát đi thông điệp Mỹ đang trở nên yếu hèn. Gần đây nhất, trước thềm đại hội đảng lần thứ 20, ông Tập cho rằng Mỹ cần Trung Quốc chứ Trung Quốc không cần Mỹ. Ông kêu gọi một làn sóng tẩy chay Mỹ, như một văn hóa cần lan rộng trong lòng người Trung Quốc.

 

 

Trung Quốc tăng cường xâm lược bất hợp pháp trên Biển Đông và Hoa Đông, các cuộc đụng độ liên tục giữa các lực lượng Trung Quốc và Ấn Độ dọc theo biên giới đất liền của họ. Với Úc, sự hung hăng đã khiến Trung Quốc phát động cuộc thương chiến và truyền bá thù địch không cần thiết với xứ sở này.

 

 

Nói cách khác, sự trỗi dậy và tham vọng quá lớn của Trung Quốc đã đẩy tất cả các thành viên của Bộ tứ vào thế buộc phải đoàn kết chống lại Trung Quốc vì bảo tồn lãnh thổ, biển đảo hay lợi ích kinh tế - chính trị của mình.

 

 

Nhưng Bắc Kinh trải qua thời gian dài luôn được đắc chí đã ngủ say trong chiến thắng. Họ chỉ nhìn vào lịch sử yếu ớt, vô dụng của Bộ tứ kim cương và tiếp tục nhạo báng sức mạnh của Bộ tứ.

 

Bộ tứ kim cương là thách thức lớn nhất với tham vọng của “Hoàng đế đỏ”.

 

Vào tháng 6/2020, các lực lượng Trung Quốc và Ấn Độ xung đột dọc theo biên giới chung. Các cuộc đụng độ khiến 20 binh sĩ Ấn Độ thiệt mạng đã đẩy New Delhi, trước đây là thành viên miễn cưỡng nhất của Bộ tứ, phải đánh giá lại các ưu tiên chiến lược của mình, trong đó có ưu tiên với Bộ tứ. 

 

 

Khi các bộ trưởng ngoại giao của Bộ tứ họp lại, vào tháng 10/2020 tại Tokyo, Bắc Kinh bắt đầu chú ý. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã tuyên bố thẳng thừng rằng mục tiêu của Washington là “thể chế hóa” Bộ tứ, “xây dựng một khuôn khổ an ninh thực sự” và thậm chí mở rộng nhóm vào “thời điểm thích hợp” để “chống lại thách thức mà Cộng sản Trung Quốc đang gia tăng lên cho 4 quốc gia này”. Cựu bộ trưởng ngoại giao Mỹ Pompeo trước đó đã tập hợp New Zealand, Hàn Quốc và Việt Nam để tham gia cuộc đàm phán “Quad Plus” về thương mại, công nghệ và an ninh chuỗi cung ứng.

 

 

Sau cuộc gặp, Ấn Độ đã mời Úc tham gia cuộc tập trận hải quân Malabar hàng năm được tổ chức cùng với Hoa Kỳ và Nhật Bản. Điều này rất đáng chú ý vì Ấn Độ trước đó đã từ chối cho phép Úc tham gia các cuộc tập trận vì sợ gây phản cảm với Bắc Kinh. Bây giờ, phần lớn là nhờ vào cuộc đụng độ biên giới vào tháng 6/2020, tất cả những do dự còn lại ở Delhi đã không còn nữa. 

 

 

Sau cuộc họp Bộ trưởng Bộ tứ tháng 10/2020 và các cuộc tập trận hải quân Malabar sau đó, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đã thay đổi giọng điệu của mình một cách đáng kể, gọi chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Bộ tứ là “một nền tảng lớn nguy cơ an ninh” đối với khu vực. Bắc Kinh cũng chọn một mục tiêu để chống lại. Truyền thông chiến lược của Trung Quốc khuyên “giết một để cảnh cáo một trăm”. Trong trường hợp này, ý tưởng là giết một (Úc) để cảnh cáo hai (Ấn Độ và Nhật Bản).

 

 

Để giết gà dọa khỉ, không có lời giải thích cụ thể, Bắc Kinh đột ngột áp đặt các hạn chế đối với nhập khẩu than của Úc - và sau đó là thịt, bông, len, lúa mạch, lúa mì, gỗ, đồng, đường, tôm hùm và rượu vang. Với tư cách là nền kinh tế nhỏ nhất trong số 4 nền kinh tế thuộc Bộ tứ, theo đánh giá của Bắc Kinh, Úc sẽ là quốc gia dễ bị tổn thương nhất trước áp lực kinh tế (và theo sự khác biệt về quy mô và địa lý, ít đe dọa đến lợi ích an ninh của Trung Quốc). Đồng thời, Trung Quốc đã làm việc để sửa chữa quan hệ với Ấn Độ và Nhật Bản. Sau nhiều năm nỗ lực cải thiện quan hệ với Tokyo, Bắc Kinh đã cố gắng hoàn tất chuyến thăm của ông Tập để gặp gỡ người kế nhiệm ông Abe là Yoshihide Suga.

 

 

Nhưng Bắc Kinh đã đánh giá quá cao sức mạnh của mình, cũng như đánh giá quá thấp quyết tâm thoát Trung, chống Trung và khả năng đoàn kết của Bộ tứ. Sự hung hăng của Trung Quốc ở biển Hoa Đông đã làm băng giá thêm mối quan hệ Trung - Nhật. Ở Delhi, sự cảnh giác với Trung Quốc đã trở nên ăn sâu, bám rễ. Ngoại trưởng Ấn độ Subrahmanyam Jaishankar giải thích rằng các vụ đụng độ với Trung Quốc ở biên giới đã đẩy Ấn Độ tham gia sâu hơn vào các mối quan hệ an ninh với Mỹ và các nước khác trong khu vực nhằm chống Trung. 

 

 

Vào đầu năm nay, các quan chức Bắc Kinh đã nhận ra rằng họ không thể chia rẽ Bộ tứ và càng không thể lờ đi liên minh chống Trung thực lực đang nằm ngay sát vách này. 

 

 

Cuộc họp vào tháng 3 của các nhà lãnh đạo của Bộ tứ đã xác nhận những lo ngại ngày càng tăng của Trung Quốc về tầm quan trọng của nhóm. Bằng cách triệu tập các nhà lãnh đạo cao nhất của Bộ tứ lần đầu tiên, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã báo hiệu rằng nhóm sẽ là trung tâm trong chiến lược của ông ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Và lần đầu tiên, cuộc họp đã đưa ra một thông cáo chung thống nhất cam kết thúc đẩy “một trật tự tự do, cởi mở, dựa trên luật lệ, bắt nguồn từ luật pháp quốc tế” và bảo vệ “các giá trị dân chủ và toàn vẹn lãnh thổ”. Bộ tứ cũng cam kết hợp tác sản xuất và phân phối một tỷ liều vaccine COVID-19 trong toàn khu vực. Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã nói về điều có thể là nỗi sợ hãi tồi tệ nhất của Bắc Kinh khi ông tuyên bố: “Cuộc gặp thượng đỉnh hôm nay cho thấy Bộ tứ đã đến tuổi. Giờ đây tổ chức này sẽ duy trì vị trí trụ cột quan trọng cho ổn định trong khu vực”.

 

 

 

 

Bắc Kinh buộc phải chuyển sang tấn công chính trị toàn diện.

 

Kể từ đó, đã có một sự bùng nổ trong việc Trung Quốc lên án Bộ tứ là một “nhóm nhỏ” gồm các quốc gia đang cố gắng “bắt đầu một cuộc chiến tranh lạnh mới”. Vào tháng 5, ông Tập đã lên án những nỗ lực sử dụng “chủ nghĩa đa phương như một cái cớ để hình thành các nhóm nhỏ hoặc khuấy động sự đối đầu về ý thức hệ”. Trung Quốc đã bắt đầu thể hiện mình là nhà vô địch của “chủ nghĩa đa phương chân chính” và là người bảo vệ hàng đầu của hệ thống Liên Hợp Quốc. Ông Tập và các quan chức Trung Quốc khác đã bắt đầu nói thường xuyên hơn về “trách nhiệm của cường quốc” và vị thế của “cường quốc có trách nhiệm” của Trung Quốc. Bắc Kinh cũng đang tăng cường gấp đôi nỗ lực phát triển các khuôn khổ thương mại thay thế bằng cách thúc đẩy tư cách thành viên của mình trong Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), nỗ lực hoàn tất thỏa thuận đầu tư giữa Liên minh Châu Âu (EU) và Trung Quốc, và tán thành ý tưởng tham gia CPTPP (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, phát triển từ các cuộc đàm phán Đối tác xuyên Thái Bình Dương do Hoa Kỳ thúc đẩy). Hy vọng của Bắc Kinh là họ có thể cô lập và loại trừ Bộ tứ bằng cách vượt trội hơn về mặt ngoại giao và thương mại trên trường toàn cầu.

 

 

Tuy nhiên, những lời tố cáo như vậy cho đến nay hầu như không làm cản trở sự tiến bộ của Bộ tứ. Chuyến đi vào tháng 6 của ông Biden đến Châu Âu - nơi Úc và Ấn Độ tham gia nhóm G7 và các cuộc thảo luận của Mỹ với EU và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) bao gồm thành phần nặng nề của Trung Quốc - củng cố lo ngại rằng Bộ tứ có thể tự tích hợp vào một liên minh chống Trung Quốc rộng lớn hơn. Và các tương tác giữa Mỹ và Nam Hàn, bao gồm chuyến thăm vào tháng 5 của Tổng thống Moon Jae-in tới Washington, củng cố lo ngại rằng Bộ tứ có thể gia nhập thêm Nam Hàn và trở thành “Nhóm nghiên cứu”; mặc dù Seoul (Hán Thành) thường miễn cưỡng đứng về phía Hoa Kỳ để chống lại Trung Quốc, nhưng tuyên bố chung của hai nước nhất trí rằng họ “thừa nhận tầm quan trọng của chủ nghĩa đa phương khu vực cởi mở, minh bạch và bao trùm, bao gồm cả Bộ tứ”.

 

 

 

 

Trung Quốc có nhiều lý do để lo ngại.

 

Trung Quốc có lý do đáng kể để lo lắng về những diễn biến như vậy và ý nghĩa của chúng đối với tham vọng không đáy của Trung Quốc trên khu vực và toàn cầu. 

 

 

Ví dụ, trên mặt trận an ninh, Bộ tứ thay đổi suy nghĩ của Bắc Kinh về các kịch bản khác nhau ở eo biển Đài Loan, Biển Đông và ở mức độ thấp hơn ở Biển Hoa Đông. Bộ tứ cũng khiến Bắc Kinh ý thức về khả năng có Úc, Ấn Độ, hoặc sự can dự của quân đội Nhật Bản vào bất kỳ cuộc xung đột Trung - Mỹ nào. 

 

 

Đặc biệt quan trọng sẽ là sự phối hợp của Bộ tứ với Sáng kiến ​​Răn đe Thái Bình Dương của Hoa Kỳ. Một mạng lưới phân tán gồm các tên lửa chống hạm trên đất liền và các khả năng tấn công chính xác khác đóng tại các nước đồng minh trong khu vực có thể cản trở mối đe dọa về một cuộc xâm lược bằng bộ binh của Bắc Kinh đối với Đài Loan, một cuộc phong tỏa hoặc tên lửa đất đối không. Trung Quốc cũng nên lo ngại rằng Bộ tứ có thể sẽ tiến tới một thỏa thuận chia sẻ thông tin tình báo với Ngũ Nhãn (Five Eyes), cho phép thông tin nhạy cảm về chiến lược và hành vi của Trung Quốc được phổ biến rộng rãi hơn.

 

 

Nhưng tình huống xấu nhất theo quan điểm của Bắc Kinh là Bộ tứ có thể đóng vai trò là nền tảng của một liên minh chống Trung Quốc toàn cầu rộng lớn hơn. Nếu Bộ tứ nhằm lôi kéo các quốc gia Châu Á khác, EU và NATO vào nỗ lực đối đầu hoặc làm suy yếu tham vọng quốc tế của Trung Quốc, thì theo thời gian, nó có thể xoay chuyển cán cân quyền lực tập thể một cách dứt khoát chống lại Trung Quốc. Bộ tứ cũng có thể đặt nền tảng cho một liên minh kinh tế, hải quan và tiêu chuẩn rộng lớn hơn, có thể định hình lại mọi thứ từ tài trợ cơ sở hạ tầng toàn cầu đến chuỗi cung ứng cho đến các tiêu chuẩn công nghệ. Quan chức cấp cao về Châu Á của chính quyền ông Biden, Kurt Campbell, đã nói về sự cần thiết phải cung cấp một “tầm nhìn kinh tế tích cực” cho Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương; Bắc Kinh lo ngại rằng Bộ tứ có thể trở thành điểm tựa cho một nỗ lực như vậy.

 

 

Một điểm thuận lợi, theo quan điểm của Bắc Kinh, là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), có khả năng sẽ giữ khoảng cách với Bộ tứ, như một phần trong quan điểm trung lập chung về căng thẳng Mỹ-Trung. Các quan chức Trung Quốc cũng cảm thấy thoải mái khi tâm lý bảo hộ tiếp tục ở cả Washington và Delhi, có nghĩa là cả hai nước đều không có khả năng sớm tham gia CPTPP (hoặc thậm chí RCEP) bất kỳ lúc nào. Thật vậy, lực hấp dẫn của nền kinh tế Trung Quốc sẽ vẫn là công cụ lớn nhất để làm suy yếu Bộ tứ và lật đổ các nỗ lực chống Trung Quốc trên phạm vi rộng hơn: đối với Bắc Kinh, tăng trưởng kinh tế liên tục của Trung Quốc và tỷ trọng ngày càng tăng trong nền kinh tế toàn cầu vẫn là những lợi thế chiến lược quan trọng nhất của họ, hiện tại cũng như trong quá khứ.

 

 

Thêm vào đó, để chống lại Bộ tứ, Trung Quốc cũng sẽ tăng gấp đôi hợp tác chiến lược và quân sự với Nga. Moscow (Mạc Tư Khoa) và Bắc Kinh đã cam kết mở rộng hợp tác năng lượng hạt nhân song phương. Trong cuộc điện đàm hồi tháng 5 với ông Tập, Tổng thống Nga, Vladimir Putin, đã gọi mối quan hệ Trung - Nga là “tốt nhất trong lịch sử”. Từ quan điểm của Trung Quốc, Nga đóng vai trò là một đối tác quân sự hữu ích và đối với Bộ tứ, cung cấp một cách để mở rộng lĩnh vực lựa chọn chiến lược của Trung Quốc về mặt địa lý. Chẳng hạn, việc Nga ở gần Nhật Bản và việc nước này tiếp tục chiếm đóng các Lãnh thổ phía Bắc của Nhật Bản, có thể khiến Tokyo phải suy nghĩ kỹ trước khi tham gia với Hoa Kỳ trong bất kỳ kịch bản quân sự nào trong tương lai liên quan đến Trung Quốc.

 

 

Việc tiếp tục hợp nhất Bộ tứ cũng sẽ thúc đẩy tăng chỉ tiêu quân sự của Trung Quốc. Ngay cả khi một số nhà phân tích Trung Quốc nghi ngờ về tác động thực tế của Bộ tứ đối với hoạt động thực sự của chiến trận, các quan chức quân sự sẽ lập luận rằng họ phải sẵn sàng cho các tình huống xấu nhất liên quan đến Bộ tứ. Các quan chức Trung Quốc cảnh giác sẽ lặp lại sai lầm của Liên Bang  Xô Viết (Soviet Union) trong việc tăng cường quân sự quá mức với cái giá phải trả là sự suy yếu nền kinh tế dân sự. Nhưng nếu họ nhận thấy tương quan lực lượng với Mỹ và các đồng minh đang chuyển hướng chống lại Trung Quốc, chi tiêu quân sự của Bắc Kinh sẽ tăng lên tương ứng, làm gia tăng cuộc chạy đua vũ trang khu vực ở Châu Á.

 

 

Cuối cùng, câu hỏi lớn nhất có thể là tất cả những điều này có ý nghĩa gì đối với ông Tập, đặc biệt là trong thời gian sắp tới Đại hội Đảng lần thứ 20, vào mùa thu năm 2022, nơi ông Tập hy vọng sẽ đảm bảo sự thống trị chính trị lâu dài của mình. Có một số khả năng cho rằng sự tiến bộ của Bộ tứ sẽ cung cấp thêm bằng chứng cho những người gièm pha ông Tập về khuynh hướng diều hâu quá mức của ông ta. Tuy nhiên, nhiều khả năng là ông Tập cuối cùng sẽ cố gắng củng cố bàn tay của mình bằng cách chỉ vào Bộ tứ như một bằng chứng cho thấy các đối thủ của Trung Quốc đang xoay quanh lợi ích với Trung Quốc mà thôi, qua đó củng cố hơn nữa quyền lực của ông. 

(ntdvn.com - Đức Duy Theo Foreign Affairs)