Một nước Úc được vũ trang hạt nhân khiến việc đưa đất nước trở thành một mắt xích trong kiến trúc phòng thủ tập thể rộng lớn trở nên khả thi hơn nhiều.
Việc có một đồng minh đáng tin cậy của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương với khả năng răn đe hạt nhân độc lập sẽ tăng cường khả năng răn đe hạt nhân ở châu Á - Thái Bình Dương nói chung.
Là quốc gia thành viên NPT nhưng Úc được cho có đủ cơ sở pháp lý để phát triển và sở hữu vũ khí hạt nhân. (Nguồn: National Interest)
Cách ly khỏi tấn công tên lửa tầm xa.
Trong thế kỷ qua, Úc là đồng minh quân sự đáng tin cậy nhất của Mỹ. Trong mọi cuộc xung đột lớn, người Úc đã sát cánh chiến đấu với Mỹ.
Tuy nhiên, khi sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng nóng lên ở Tây Thái Bình Dương, Úc thận trọng không khiêu khích Trung Quốc - đối tác thương mại lớn nhất của mình.
Khi nói đến một cuộc xung đột Mỹ-Trung tiềm tàng, Úc với lý do chính đáng đang làm tất cả những gì có thể để giữ cho các lựa chọn của mình luôn mở.
Úc rất dễ bị tấn công bằng tên lửa tầm xa, bao gồm cả những tàu chiến mang vũ khí hạt nhân. Mặc dù Úc là một cường quốc lục địa, nhưng hầu hết dân số của nước này đều tập trung ở các thành phố lớn - những mục tiêu dễ dàng cho số lượng đầu đạn nhỏ.
Trong một cuộc xung đột cường độ cao giữa Mỹ và Trung Quốc, có thể hình dung rằng Trung Quốc có thể nhắm tên lửa hạt nhân tầm xa vào Úc như một bước leo thang, chứng tỏ cho Mỹ thấy năng lực và sự sẵn sàng tiến hành các cuộc tấn công hạt nhân trên phạm vi liên lục địa.
Trong trường hợp này, khả năng răn đe hạt nhân mở rộng của Mỹ khó có thể đáng tin cậy. Trả đũa thay mặt Úc rõ ràng có nghĩa là chấp nhận cuộc tấn công hạt nhân quy mô lớn của Trung Quốc vào lục địa Mỹ.
Vì thế, nhiều người Úc tin rằng xung đột với cường quốc hạt nhân đông dân nhất thế giới, với bất kỳ lý do gì và trong bất kỳ hoàn cảnh nào, là điều không tưởng - mặc dù có sự ủng hộ rất mạnh mẽ đối với liên minh Úc-Mỹ tổng thể.
Phương tiện hiệu quả nhất để Úc có thể tự cách ly khỏi cuộc tấn công hạt nhân tầm xa là phát triển hoặc có được lực lượng răn đe hạt nhân tầm xa đáng tin cậy của riêng mình.
Quyền hợp pháp để sở hữu vũ khí hạt nhân.
Nhiều người sẽ coi đây là một ý tưởng tồi. Nếu nước Úc - thành viên Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (Non-Proliferation Treaty - NPT) quyết định hạt nhân hóa, thì về nguyên tắc, rất khó để thuyết phục Nhật Bản, Nam Hàn và những nước khác làm theo, đe dọa nghiêm trọng đến cơ chế không phổ biến vũ khí hạt nhân nói chung.
Quan điểm này là sai lầm cơ bản. Trên thực tế, nước Úc có một vị thế pháp lý rất độc đáo đối với vũ khí hạt nhân. Hiện tại, có 5 quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân thuộc NPT (Mỹ, Nga, Anh, Pháp và Trung Quốc). Theo Điều IX.3 của NPT, một quốc gia có thể gia nhập hiệp ước với tư cách là quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân nếu quốc gia đó “sản xuất và cho nổ thiết bị hạt nhân trước ngày 1/1/1967”. Úc thỏa mãn điều kiện này.
Trong những năm 1950-1960, Úc đã "đăng cai" một loạt vụ thử hạt nhân do Anh tiến hành. Các vụ nổ hạt nhân này được tiến hành trên lãnh thổ có chủ quyền của Úc với sự tham gia tích cực của các nhà khoa học và quân nhân Úc. Các thử nghiệm này nhận được sự hỗ trợ tài chính trực tiếp từ chính phủ Úc, với ít nhất một số vụ nổ có thể đã sử dụng vật liệu phân hạch có nguồn gốc địa phương từ bên trong Úc. Không có quốc gia thành viên nào khác không sở hữu vũ khí hạt nhân thuộc NPT có vị thế tương tự.
Theo chuyên gia Rod Lyon, thuộc Viện Chính sách Chiến lược Úc Đại Lợi, các nhà đàm phán Úc đã nhận thức rất rõ về cơ sở pháp lý này trước khi Úc tham gia NPT. Nói tóm lại, nếu Úc xác định rằng việc phát triển một biện pháp răn đe hạt nhân độc lập là một nhiệm vụ an ninh quốc gia, thì nước này có quyền hợp pháp để làm như vậy.
Vì quy chế pháp lý này không áp dụng cho các đồng minh khác của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương, nên việc Úc thay đổi quy chế hạt nhân theo NPT sẽ không làm suy yếu toàn bộ hiệp ước.
Một nước Úc được trang bị vũ khí hạt nhân có thể sẽ mang lại cho Mỹ một số lợi thế chiến lược: Củng cố quyết tâm của Úc trong việc hỗ trợ Mỹ trong một cuộc cạnh tranh chiến lược chưa ngã ngũ ở châu Á - Thái Bình Dương; hỗ trợ khả năng răn đe hạt nhân mở rộng bằng cách loại bỏ một yếu tố tiềm ẩn dễ bị tổn thương trong chính sách và các quốc gia ở Đông Nam Á sẽ coi Úc là một đối tác chiến lược có năng lực hơn và tăng cường hợp tác.
Nâng vị thế trong đàm phán hạt nhân.
Hơn nữa, một nước Úc được trang bị vũ khí hạt nhân khiến việc đưa nước này trở thành một tổ chức phòng thủ tập thể rộng lớn trở nên khả thi hơn nhiều. Việc có một đồng minh đáng tin cậy của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương với khả năng răn đe hạt nhân độc lập sẽ tăng cường khả năng răn đe hạt nhân ở châu Á - Thái Bình Dương nói chung. Úc đạt được những mục tiêu này mà không làm suy yếu nghiêm trọng các nỗ lực không phổ biến vũ khí hạt nhân trên phạm vi rộng.
Mỹ nên công nhận quyền sở hữu vũ khí hạt nhân của Úc theo NPT. Điều này không có nghĩa là Úc sẽ ngay lập tức tìm cách có được những loại vũ khí như vậy. Úc có thành tích không phổ biến vũ khí hạt nhân mạnh mẽ và một lịch sử lâu dài về hoạt động giải trừ vũ khí.
Trong ngắn hạn, Úc sẽ sử dụng sự công nhận này để thúc đẩy vị thế của mình trong các cuộc đàm phán kiểm soát vũ khí hạt nhân hiện nay, tiếp tục thuyết phục các nước trong khu vực thực hiện kiềm chế hạt nhân.
Bất kể lựa chọn hạt nhân trong tương lai của Úc như thế nào, việc thừa nhận thực tế pháp lý về vị thế độc nhất vô nhị của Úc theo NPT sẽ hỗ trợ chiến lược dài hạn của Mỹ ở châu Á- Thái Bình Dương. Chính phủ Mỹ nên làm như vậy như một vấn đề ưu tiên.
(Theo nationalinterest.org)