Ảnh: Michelle McFarlane/Photos by MMP - Michelle McFarla

 

AUSTRALIA - Một báo cáo mới của chính phủ ước tính rằng hơn 411.000 người Úc đang sống chung với chứng mất trí. Con số đó dự kiến sẽ đạt gần 900.000 vào năm 2050. Các nhóm vận động và các chuyên gia cảnh báo của rằng hệ thống y tế của chúng ta theo tình hình hiện tại sẽ không thể đáp ứng được khối lượng bệnh nhân như vậy.

 

 

David Sykes, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu về chứng mất trí nhớ tại Dementia Australia nói, "Đây là vấn đề sức khỏe rất lớn ở Úc."

 

Một báo cáo mới của Tổ chức Thống Kê Y tế và Phúc lợi Úc (Australian Institute of Health and Welfare AIHW) cho biết chứng mất trí nhớ hiện ảnh hưởng đến gần nửa triệu (411.000) người Úc.

 

 

Nó cũng là nguyên nhân gây ra một trong 11 ca tử vong ở Úc, với 17.800 ca được ghi nhận vào năm 2022 – trong đó gần hai phần ba là phụ nữ (11.300).

"Đây rõ ràng là một cuộc khủng hoảng. Những con số đó tnói lên rất nhiều. Chúng ta không thể lơ là để có thêm một báo cáo khác tương tư như vậy đưa ra, nó cho thấy mức độ của cuộc khủng hoảng sức khỏe lớn này đối với đất nước này và chúng ta rất cần phải hành động ngay bây giờ."

 

Mặc dù chứng mất trí nhớ thường đi đôi với lão hóa, nhưng không phải tất cả những người mắc bệnh đều là người cao tuổi.

 

Tổ chức Thống Kê Y tế và Phúc lợi Úc - Australian Institute of Health and Welfare (AIHW) - ước tính khoảng 29.000 người mắc chứng mất trí nhớ đã bị căn bệnh này tấn công từ khá sớm.

 

Giáo sư Darshini Ayton, là Phó trưởng khoa Y tế và Chăm sóc Xã hội tại Đại học Monash, cho biết việc chẩn đoán ở những người trẻ tuổi rất khó khăn vì các biểu hiện chứng bệnh này thường ít được chú ý.

"Những người mắc chứng mất trí nhớ khởi phát sớm thường có nhiều triệu chứng khác nhau và đó là lý do tại sao phải mất một thời gian để có thể chẩn đoán. Họ có những thay đổi về tâm trạng, những thay đổi về hành vi hoặc đôi khi những biểu hiện này của họ là do vấn đề hôn nhân và rồi sau đó mới phát hiện ra rằng người này thực tế là đang sống chung với chứng mất trí nhớ nhìn thấy qua cách họ gặp khó khăn trong việc giao tiếp diễn đạt. Và khi biết được thực sự người này đang bị gì thì vấn đề sẽ dễ dàng hơn."

 

Chứng mất trí nhớ là một tập hợp các triệu chứng rối loạn ảnh hưởng đến não, bao gồm mất khả năng suy nghĩ, ghi nhớ và lý luận.

 

Có hơn 200 phân nhóm chứng mất trí nhớ với biểu hiện khác nhau và cần các phương pháp chăm sóc khác nhau.

 

Nhưng tất cả các loại đều có chung biểu hiện là có nhận thức xã hội sai lệch, đưa ra những giả định có hại và gây hiểu lầm.

 

Giáo sư Ayton cho biết những người trẻ tuổi có thể cảm thấy mặc cảm hơn rất nhiều hơn.

"Những người chúng tôi đã phỏng vấn với chẩn đoán mắc bệnh khởi phát sớm - cả bạn đời và người bệnh đều thấy vô cùng khó khăn vì đột nhiên, bạn lái xe đến khám và sau đó bạn được thông báo rằng bạn không được phép lái xe về nhà vì bạn được chẩn đoán mắc chứng mất trí nhớ hoặc bạn phải ngừng làm việc vì giờ bạn đang mắc căn bệnh mất trí nhớ. Vì vậy, điều đó dẫn đến mặc cảm và có những cuộc thảo luận lớn diễn ra xung quanh việc nếu một người bị mắc bệnh rất sớm và những dịch vụ chủ động hỗ trợ và quản lý là cần thiết hay không, hay họ có thể vẫn đủ khỏe mạnh để tiếp tục công việc, vai trò của họ."

 

Các chuyên gia và nhóm vận động cũng cho biết sự mặc cảm có thể dẫn đến việc người bệnh trì hoãn tìm kiếm sự giúp đỡ, chẩn đoán và điều trị kịp thời.

 

Nhưng một nỗ lực toàn quốc về giáo dục lại và xác định triệu chứng hiện đang có hiệu quả .

 

Dữ liệu từ Tổ chức Y tế và Phúc lợi Úc - AIHW - cho thấy số lượng đơn thuốc điều trị chứng mất trí nhớ đã tăng gần 50% trong thập kỷ qua, vì ngày càng có nhiều người tìm kiếm các chẩn đoán và liệu pháp có thể làm chậm sự tiến triển của bệnh.

 

Gần 688.000 đơn thuốc điều trị chứng mất trí đã được kê trong năm 2022-23 cho khoảng 72.400 người Úc từ 30 tuổi trở lên, Vào năm 2013-14 con số này là 472.000 đơn thuốc cho khoảng 50.800 người.

 

Melanie Dunford, Quyền Trưởng nhóm Sức khỏe Dân số tại A-I-H-W, cho biết mặc dù dữ liệu cho thấy sự hiểu biết tốt hơn về căn bệnh này nói chung, nhưng nó vẫn không phản ánh được toàn cảnh.

"Về mặt đơn thuốc được kê, hiện tại theo Chương trình phúc lợi dược phẩm PBS, chúng chỉ dành cho những người được chẩn đoán mắc bệnh Alzheimer. Và chỉ có một tỷ lệ nhỏ những người được chẩn đoán mắc chứng mất trí nhớ là được cấp đơn thuốc. Đơn thuốc có tác dụng kiểm soát các triệu chứng, chứ không có cách chữa khỏi chứng mất trí nhớ. Có một nhóm người được chẩn đoán mắc chứng mất trí nhớ không được kê đơn thuốc vì họ không thể tự kê đơn."

 

Tổ chức Y tế và Phúc lợi Úc cho biết số người Úc mắc chứng mất trí nhớ sẽ tăng đột biến – dự kiến sẽ đạt gần 900.000 vào năm 2050.

 

Để ứng phó, các chuyên gia đang áp dụng biện pháp phòng ngừa.

 

Giáo sư Kaarin Anstey, chuyên gia khoa học nghiên cứu  cấp cao tại NeuRA, nói: "Khoảng 45% các trường hợp mắc chứng mất trí là do các yếu tố nguy cơ phổ quát xuất phát từ lối sống có thể điều chỉnh và như vậy nó là một phạm vi rất lớn để can thiệp khi muốn làm giảm số lượng người mắc chứng mất trí trong tương lai. Ở độ tuổi trung niên, các yếu tố về máu huyết làm tăng nguy cơ mắc chứng mất trí ở giai đoạn cuối đời. Đó là những thứ như huyết áp cao, cholesterol cao, tiểu đường, hút thuốc lá. Về mặt lối sống, việc không vận động đủ và có chế độ ăn uống không lành mạnh đều làm tăng nguy cơ mắc chứng mất trí."

 

Và khi số lượng người mắc bệnh ngày càng tăng, thì việc quản lý trở thành một vấn đề lớn.

 

Phó Giáo sư Ayton cho biết hệ thống y tế của chúng ta chưa sẵn sàng cho tác động toàn diện.

"Chúng ta cần một lực lượng lao động hoàn toàn mới. Khi chúng ta nghĩ về và vật lộn với tình trạng gia tăng của chứng mất trí, chúng ta cần suy nghĩ xem các y tá của chúng ta có cần được đào tạo nhiều hơn về chứng mất trí nhớ không, các nhân viên xã hội của chúng ta có cần được đào tạo nhiều hơn về chứng mất trí nhớ không, các đơn vị y tế liên quan của chúng ta có cần được đào tạo nhiều hơn về chứng mất trí nhớ không? Làm thế nào để chúng ta đưa việc đào tạo về chứng mất trí vào đội ngũ y tá hành nghề chung? Nếu bạn không phải là chuyên gia y tế nhưng bạn đang sống với những người - như trong hoàn cảnh của tôi là cha mẹ tôi- thì việc nâng cao kiến thức của riêng tôi về chứng mất trí thực sự hữu ích."