Một cửa hàng Kmart (AAP Image/Mick Tsikas). Ảnh: AAPIMAGE

 

 

AUSTRALIA - Hiệp hội Phụ nữ Duy Ngô Nhĩ tại Úc vừa khởi kiện Kmart, yêu cầu tập đoàn bán lẻ này phải cung cấp tài liệu chứng minh họ không cố tình nhập hàng từ các nhà máy có liên quan đến lao động cưỡng bức. Tuy nhiên Kmart đã phủ nhận điều này.

 

Nhiều người nghĩ rằng chế độ nô lệ đã là chuyện quá khứ, nhưng hiện nay có nhiều người sống trong cảnh nô lệ hơn bao giờ hết.

 

Tại Úc, các công ty lớn bắt buộc phải báo cáo cách họ ứng phó với rủi ro nô lệ hiện đại trong chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, hầu như không có hình phạt thực sự nào nếu các công ty không hành động.

 

Giờ đây, một tổ chức gồm những phụ nữ Duy Ngô Nhĩ đang chủ động hành động bằng cách đệ đơn kiện Kmart – một tập đoàn bán lẻ lớn tại Úc.

 

Nhóm này cho rằng họ có cơ sở hợp lý để tin rằng Kmart đang nhập một số sản phẩm từ chuỗi cung ứng liên quan đến các trại lao động cưỡng bức đối với người Duy Ngô Nhĩ.

 

Kmart phủ nhận cáo buộc này.

 

Jen Kanis, luật sư chính tại hãng luật Maurice Blackburn – người đại diện pháp lý cho nhóm phụ nữ Duy Ngô Nhĩ – cho biết:

 

"Chúng tôi đã đệ đơn kiện lên Tòa án Liên bang để xác định liệu Kmart có hành vi gây hiểu lầm về việc xử dụng lao động cưỡng bức trong chuỗi cung ứng của họ hay không. Lý do là vì thân chủ của chúng tôi lo ngại Kmart đã có những tuyên bố sai lệch liên quan đến các cam kết đạo đức trong chuỗi cung ứng.”

 

Trong một tuyên bố, Kmart cho biết họ đang khai triển một Chương trình Đạo đức Chuỗi cung ứng nhằm xác định và giảm thiểu các rủi ro liên quan đến nô lệ hiện đại, bao gồm cả lao động cưỡng bức.

 

Tuy nhiên, trước những cáo buộc rằng một số nhà cung cấp của Kmart có liên hệ với các nhà máy xử dụng lao động cưỡng bức người Duy Ngô Nhĩ, đơn kiện yêu cầu Kmart công bố tài liệu để làm rõ vấn đề.

 

Ramila Chanisheff, Chủ tịch Hiệp hội Phụ nữ Duy Ngô Nhĩ tại Úc – đơn vị khởi kiện, khẳng định:

 

"Mục tiêu cuối cùng là bảo đảm rằng Kmart không giao thương với các chuỗi cung ứng xử dụng lao động cưỡng bức của người Duy Ngô Nhĩ hay bất kỳ hình thức nô lệ nào. Điều này cũng cần áp dụng với các ngành khác. Hiện tại, việc xử dụng nô lệ hiện đại là bất hợp pháp ở Úc, nhưng các luật và quy định lại không đủ mạnh để buộc các ngành công nghiệp phải chịu trách nhiệm. Đây là điểm yếu lớn. Dù chúng tôi có bằng chứng đáng tin cậy về việc lao động cưỡng bức tồn tại trong chuỗi cung ứng, nếu chánh phủ không hành động mạnh mẽ hơn, các tập đoàn sẽ tiếp tục thoát tội.”

 

Người Duy Ngô Nhĩ là dân tộc thiểu số nói tiếng Turk, phần lớn theo đạo Hồi, sống ở khu vực Tân Cương – hay còn được cộng đồng này gọi là Đông Turkestan – phía tây bắc Trung Quốc.

 

Kể từ năm 2017, ước tính đã có hơn một triệu người Duy Ngô Nhĩ bị bắt giam.

 

Chính phủ Trung Quốc gọi đây là các "trại giáo dục lại", nhưng nhiều chuyên gia cho rằng những nơi này tương đương với "trại tập trung".

 

Việc di chuyển cưỡng bức và bóc lột lao động người Duy Ngô Nhĩ đã được ghi nhận rộng rãi, dưới danh nghĩa "đào tạo nghề" và "giảm nghèo".

 

Bà Chanisheff nói tất cả người Duy Ngô Nhĩ đều bị ảnh hưởng – dù là người thân trực tiếp hay họ hàng.

 

"Tất cả chúng tôi đều bị ảnh hưởng – dù là người thân gần hay xa, bạn bè hay người quen. Khi ai đó bị đưa vào trại, sẽ không có bất kỳ liên lạc nào với họ. Những gì còn lại là người thân bên ngoài cố gắng giữ liên lạc qua WeChat – ứng dụng bị chính quyền Trung Quốc giám sát chặt chẽ.”

 

Phần lớn người bị bắt không hề bị buộc tội chánh thức. Một số lý do khiến họ bị giam giữ là do đi lễ ở nhà thờ Hồi giáo, gửi tin nhắn có nội dung Kinh Qur’an, hay mặc trang phục tôn giáo.

 

Ngoài việc bị bắt hàng loạt và giám sát, người Duy Ngô Nhĩ còn bị cáo buộc phải chịu đựng triệt sản cưỡng bức, bạo lực tình dục, chia cắt gia đình và tra tấn.

 

Do thiếu sự minh bạch từ phía chính quyền Trung Quốc, dữ liệu cụ thể rất khan hiếm – nhưng nhiều nguồn tin cho rằng hàng chục ngàn người Duy Ngô Nhĩ đã bị đưa tới các nhà máy khắp Trung Quốc đại lục để làm việc không lương.

 

Chính phủ Trung Quốc bác bỏ những cáo buộc này.

 

Freya Dinshaw, Phó Giám đốc Pháp lý tại Trung tâm Luật Nhân quyền, nơi cũng đại diện cho nhóm người Duy Ngô Nhĩ, cho biết Úc đang đối mặt với vấn nạn nghiêm trọng liên quan đến hàng hóa sản xuất từ lao động cưỡng bức.

 

"Tất cả chúng ta đều liên kết với vấn đề này qua quần áo chúng ta mặc và những thứ chúng ta mua. Ước tính có tới 27 tỷ đô-la hàng hóa có nguy cơ cao là sản phẩm của lao động cưỡng bức được nhập cảng vào Úc mỗi năm. Và vấn đề này ngày càng nghiêm trọng.”

 

Hiện nay, Đạo luật Nô lệ Hiện đại của Úc chỉ yêu cầu các công ty báo cáo các hành động nhằm giải quyết rủi ro lao động cưỡng bức – mà không bắt buộc hành động cụ thể nào.

 

Khác với Hoa Kỳ – nơi chánh phủ tuyên bố hành vi của Trung Quốc với người Duy Ngô Nhĩ là “tội ác diệt chủng” – Úc không cấm nhập cảng hàng hóa sản xuất tại Tân Cương, mà chỉ trông cậy vào tính minh bạch.

 

Bà Dinshaw cho rằng luật hiện tại không đủ mạnh và cần tăng trách nhiệm pháp lý với các công ty:

 

"Luật Nô lệ Hiện đại của Úc cần phải bảo vệ những người làm ra quần áo cho chúng ta, người hái rau quả chúng ta ăn, và người sản xuất các mặt hàng chúng ta tiêu dùng. Thế nhưng luật hiện nay chỉ yêu cầu báo cáo chứ không bắt buộc các công ty hành động. Do đó, rất cần thiết yêu cầu các công ty có nghĩa vụ pháp lý ngăn chặn nô lệ hiện đại trong chuỗi cung ứng của họ – và nếu không làm, họ phải chịu hậu quả pháp lý. Úc cũng nên noi gương Canada và Hoa Kỳ trong việc cấm hàng hóa do lao động cưỡng bức sản xuất.”

 

Nếu trong quá trình kiện tụng, tòa xác định Kmart biết rõ sản phẩm của họ đến từ các nhà máy có liên quan đến lao động cưỡng bức, công ty có thể bị kết luận là quảng cáo sai lệch khi tuyên bố rằng mọi sản phẩm đều có nguồn gốc đạo đức.

 

Tuy nhiên, họ sẽ không bị phạt vì nhập hàng từ lao động cưỡng bức, mà chỉ vì nói sai về việc không làm điều đó.

 

Bà Jen Kanis cho biết dù vụ kiện mới chỉ ở giai đoạn ban đầu, nhưng có thể gây ảnh hưởng sâu rộng đến ngành bán lẻ:

 

"Kết quả của vụ kiện này chủ yếu liên quan đến việc công khai tài liệu, nhưng nếu đi xa hơn, nó có thể trở thành một vụ kiện về hành vi lừa dối. Điều này sẽ tác động đến tất cả các nhà bán lẻ đang đưa ra các tuyên bố về nguồn gốc đạo đức – và họ sẽ không thể nói điều đó trừ khi có bằng chứng cụ thể.”

 

Cuối cùng, bà Ramila Chanisheff nhấn mạnh rằng hàng hóa rẻ và lợi ích kinh tế không nên đánh đổi bằng nhân quyền:

 

"Chúng ta cần bảo đảm rằng mọi sản phẩm trên kệ hàng đều không liên quan đến nô lệ. Và trách nhiệm không thể đặt lên vai người tiêu dùng – vì họ không thể tự điều tra sâu về quy trình sản xuất. Trách nhiệm này phải thuộc về ngành công nghiệp, các nhà bán lẻ, và chánh phủ – để mọi người dân Úc và trên thế giới không phải tự hỏi liệu món đồ họ đang dùng có được làm nên từ sự đau khổ của người khác hay không.”